Dân Mạnh là mạnh quyền lực , là mạnh về trí tuệ và mạnh khả năng đóng góp tài năng cho sự thịnh vượng chung cho đất nước . Có như thế nước mới giàu thực sự . Có như thế dân mới thể hiện quyền làm chủ trong mọi hoàn cảnh .Khi Quyền Lực thuộc về toàn dân, và người dân cùng nối kết mọi lực lượng tổ chức đấu tranh từ trong ra ngoài nước quyết chống chủ thuyết giáo điều độc tài , khủng bố áp bức người dân thô bạo , và tước đoạt quyền tự do ngôn luận của người dân, thì chỉ có lúc đó LUẬT PHÁP, NHIÊM VỤ , VÀ CÁC CHỨC NĂNG nhà nước mới làm tốt vai trò của mình ,khi đó mới có sự CÔNG BẰNG và dân không còn BỊ QUẤY RỐI , THAM NHŨNG VÀ LẠM QUYỀN

Monday, August 31, 2015

4 bài học cho Việt Nam từ đất nước Israel

Nhà nước lập quỹ đầu tư mạo hiểm cho các công ty khởi nghiệp, coi trọng nền giáo dục, không bỏ qua doanh nghiệp nhỏ và phổ biến tinh thần khởi nghiệp là 4 bài học từ Israel.


4 bài học cho Việt Nam từ đất nước Israel
Năm ngoái, tôi có đến Israel. Có những người 72 tuổi vẫn có thể được nhà nước hỗ trợ khởi nghiệp, chỉ bằng một ý tưởng, chứ không phải chờ vận hành doanh nghiệp một thời gian rồi có triển vọng rồi mới đầu tư. Đấy là cách Nhà nước Israel đầu tư cho khởi nghiệp”, TS. Trần Lương Sơn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc CTCP phần mềm Việt (VietSoftware) chia sẻ.
Dưới đây, chúng tôi xin tóm lược 4 bài học kinh nghiệm từ đất nước khởi nghiệp và sáng tạo Israel được chia sẻ bởi GS. Shlomo Maital – Giảng viên trường ĐH Technion, Israel:
1. Thực hiện chiến lược can thiệp của Nhà nước
Các công ty phần mềm Mỹ thống lĩnh thị trường thế giới, một phần nhờ các khoản đầu tư lớn của công nghiệp quốc phòng vào trường đại học và cơ sở hạ tầng. Internet đã ra đời từ dự án ARPANET của Bộ Quốc phòng Mỹ tại Đại học UCLA.
Đầu tư của Israel bắt đầu bùng nổ khi Chính phủ lập ra Yozma, công ty Nhà nước chuyên đầu tư mạo hiểm cho công nghệ.
Tại Israel, Nhà nước mở một quỹ đầu tư đầu tiên cho các công ty khởi nghiệp. Họ có thể vận hành công ty trong một thời gian, sau đó tiếp tục gây quỹ bằng cách kêu gọi quỹ đầu tư từ bên ngoài - các quỹ đầu tư mạo hiểm. Như vậy, rủi ro của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước giảm đi 50%.
2. Doanh nghiệp nhỏ là tài nguyên tuyệt vời
Việt Nam là đất nước của công nghiệp nhỏ và tư duy nhỏ. Israel cũng vậy. Doanh nghiệp nhỏ thường thiếu tầm nhìn, công nghệ, vốn. Rất nhiều quốc gia, kể cả Israel từng bỏ qua doanh nghiệp nhỏ, nhưng họ là tài nguyên tuyệt vời. Hãy giúp họ phát triển, và họ sẽ là tài nguyên tuyệt vời để giúp cho Việt Nam phát triển.
Các bạn có thể tận dụng tinh thần kinh doanh, sự chăm chỉ, quyết tâm của những người đó để họ xây dựng công ty, góp phần làm hùng mạnh nền kinh tế của nước nhà”, GS. Shlomo chia sẻ.
3. Đừng tạo ra kỹ sư thất nghiệp
Việt Nam có các trường học rất tốt. Nhưng cũng giống như Israel, trường phổ thông và các trường đại học cần phải được hiện đại hóa. Hiện các trường vẫn chưa dạy các kỹ năng mà các doanh nghiệp cần.
Bạn không thể tạo ra kỹ sư, những người tốt nghiệp ĐH mà không có việc làm. Đất nước chúng tôi cũng như các bạn cần cung cấp nền giáo dục đào tạo sao cho thế hệ trẻ ra trường có việc làm, giúp họ có tư duy phê phán và hỏi lại giảng viên điều đó có đúng hay không, làm sao để làm tốt hơn”, ông Shlomo nói.
Bí quyết trở thành quốc gia khởi nghiệp của Israel, theo ông Shlomo, là không tuyển những người mà phải nói với họ cần phải làm gì. “Việt Nam cũng không thích những người nói cho mình cần phải làm gì. Hãy khuyến khích các bạn trẻ hỏi câu hỏi thật khó, để cho họ đặt câu hỏi những kỹ năng gì nhà trường có thể cung cấp cho họ để sau này họ có thể làm việc giúp ích cho đất nước”, ông nhắn nhủ.
4. Làm cho tinh thần khởi nghiệp được phổ biến rộng khắp
RAD Data Communications của Israel được thành lập bởi anh em nhà Zisapel năm 1981. Yehuda Zisapel, hiện là Chủ tịch, đã khởi xướng một mô hình trong đó các kỹ sư sáng tạo rời RAD để khởi sự công ty của riêng mình, với sự tư vấn và nhiều khi là tiền từ RAD.
128 công ty đã được tạo ra từ 1 công ty ban đầu.
128 công ty đã được tạo ra từ 1 công ty ban đầu.
Kết quả: 128-công ty tạo thành một "liên kết” với 15.000 nhân viên và hàng tỷ Đô la xuất khẩu. Điều quan trọng đối với Việt Nam là làm cho sự khởi nghiệp trở nên lan truyền rộng khắp và nhanh chóng.
Tuy nhiên, GS. Shlomo cũng khuyên Việt Nam nên tránh sai lầm của Israel. “Chúng tôi khởi nghiệp rất nhiều, nhưng chúng tôi không thành công trong việc biến các công ty khởi nghiệp trở thành một công ty khổng lồ. Các công ty đã bị mua lại và rất nhiều người có trí tuệ của chúng tôi đã rời Israel”.
Việc làm cho công ty phát triển, sau đó bán đi để thu lợi nhuận trở thành một chu trình. Và trong suốt 10 năm qua, chúng tôi không có 1 công ty nào trở thành công ty toàn cầu”, GS Shlomo cho biết.

Theo Infonet

Mô hình 'quốc gia khởi nghiệp' Israel và bài học cho startup Việt

Israel trở thành "quốc gia khởi nghiệp" đáng ngưỡng mộ như vậy là bởi họ buộc phải phát triển và giữ được đà phát triển đó.


Mô hình 'quốc gia khởi nghiệp' Israel và bài học cho startup Việt
Nội dung nổi bật:
- Lĩnh vực khởi nghiệp (startup) đang là phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức bao gồm hỗ trợ nhận được chưa tới và vốn đầu tư chưa đủ.
- Tuy nhiên, nhiều chuyên gia rất lạc quan và cho rằng viễn cảnh này sẽ sớm thay đổi. Và một trong những mô hình đang để Việt Nam học hỏi là "quốc gia khởi nghiệp" Israel.

Trải qua gần 1 thập kỷ, thị trường startup Việt Nam vẫn đối mặt với sự thiếu hụt những công ty “chất lượng”, sự hỗ trợ chưa “tới” và vốn đầu tư chưa đủ. Tuy vậy, tất cả những vấn đề này đang dần được thay đổi bởi một làn sóng doanh nhân và nhà đầu tư mới nhằm định hình lại hệ sinh thái startup Việt Nam.
Trong khi mối liên kết giữa các nhà đầu tư và công ty khởi nghiệp tại nhiều quốc gia trên khắp châu Á đang dần tiến triển thì đây lại vẫn là vấn đề nan giải ở Việt Nam. “Nếu không có các nhà đầu tư thì sẽ không thể có một hệ sinh thái startup hoàn chỉnh”, theo bà Thủy Trương – đồng sáng lập GreenGar, công ty có trụ sở tại Việt Nam đầu tiên được chấp nhận tham gia vào chương trình 500 Startups.
Cũng theo anh Nam Đỗ - đồng sáng lập và CEO của SeeSpace thì hệ sinh thái startup hiện chưa có tại Việt Nam, nhưng quốc gia này bước đầu xây dựng nó.
Áp dụng mô hình "quốc gia khởi nghiệp Israel"?
2015 là năm đầu tiên Việt Nam được mời tham gia Start Tel Aviv – cuộc thi khởi nghiệp được tổ chức bởi Phòng kinh tế và thương mại Israel. Cùng thời điểm này, Việt Nam cũng đang nhắm đến việc kết nối các trung tâm nghiên cứu và phát triển tại các trường đại học với các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Theo Bộ trưởng bộ Khoa học công nghệ Nguyễn Quân, các công ty khởi nghiệp nên phát triển từ những trường đại học hay viện nghiên cứu. “Việt Nam có thể bắt đầu với những công ty khởi nghiệp từ trường học, sau đó đến thành phố, rồi cuối cùng là cấp quốc gia”. Ông Quân cũng tiết lộ mục tiêu của Việt Nam là có 5.000 công ty công nghệ vào năm 2020.
Israel là một trong những quốc gia rất chú trọng đến R&D (nghiên cứu và phát triển) với tỷ lệ R&D/GDP cao bậc nhất thế giới. Những "gã khổng lồ" trên toàn thế giới như Intel, eBay, Apple, IBM, Google và Microsoft đều phải đến Israel và đầu tư vào các công ty khởi nghiệp và trung tâm R&D tại đây. Nếu Microsoft đã ra mắt trung tâm R&D thì Apple lại mua 2 công ty khởi nghiệp chỉ trong vòng 2 năm, còn Intel thì đầu tư vào 64 startup tại Israel.
Vậy điều gì khiến hệ sinh thái startup của Israel tuyệt vời đến vậy? Theo Oren Simanian – nhà sáng lập của StarTau tại “thành phố khởi nghiệp” Tel Aviv thì “Israel buộc phải phát triển và giữ được đà phát triển đó”.
“Một khi đứng trong tình thế không còn lựa chọn nào khác, bạn sẽ phải làm điều tốt nhất mà mình có thể”. Thêm vào đó, văn hóa đa ngôn ngữ và tinh thần sẵn sàng đương đầu với thử thách, rủi ro của người Israel đã góp phần tạo nên thành công cho họ. “Nếu không tạo ra được một nền kinh tế tốt, bạn sẽ bị cô lập”.
Sáng tạo là yếu tố then chốt
Sự sáng tạo sẽ giúp Việt Nam phát triển từ một quốc gia có thu nhập trung bình thành đất nước giàu có. Để đạt được điều này, thế hệ các doanh nhân trẻ tuổi là yếu tố then chốt. Tạo ra hệ sinh thái cách tân sẽ giải quyết được 2 vấn đề: Tính cạnh tranh và thất nghiệp. Vì vậy, mối liên hệ giữa yếu tố tư nhân và sự trợ giúp từ Chính phủ là rất cần thiết.
Vấn về vốn
Thử thách lớn nhất khi các quỹ đầu tư gia nhập vào thị trường Việt Nam là tìm ra một đội ngũ giỏi có thể thực hiện các dự án của họ. Nhiều người phàn nàn rằng, họ không thể tìm ra được những nhà sáng lập tài năng. Cũng chính bởi vậy, phải mất đến vài tháng để hoàn thành một thỏa thuận tại Việt Nam.
Hiện nhiều chuyên gia cho rằng môi trường kinh doanh tại Việt Nam vẫn chưa cởi mở như nhiều quốc gia khác trong khu vực nhưng họ tin rằng điều này sẽ sớm được thay đổi.
“Trong vòng 3- 5 năm tới, các công ty khởi nghiệp của Việt Nam sẽ mở rộng ra nước ngoài và đây là cơ hội tốt để đầu tư”, phó chủ tịch IDG Venture Vietnam Trương Nguyễn nói. “Những tiến triển trong việc xây dựng hệ sinh thái startup sẽ giúp Việt Nam thâm nhập vào thị trường khác. Các doanh nhân Việt Nam đang ngày càng nỗ lực đổi mới để cạnh tranh với thế giới”.
Thực tế, các công ty khởi nghiệp Việt Nam vẫn tập trung quá nhiều vào thị trường trong nước. Trong khi đó, các startup tiêu biểu sẽ có tiềm năng trở thành các công ty lớn tại địa phương, theo Dzung Nguyễn – chủ tịch Cyberagent Venture của Việt Nam và Thái Lan nói.
Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư toàn cầu cũng đang bắt đầu thâm nhập vào châu Á và đầu tư hàng triệu USD. “Xu hướng này sẽ hỗ trợ cho các công ty khởi nghiệp. Đây cũng là lý do tại sao chúng tôi đang tìm kiếm nhiều khoản đầu tư hơn tại Đông Nam Á. Sẽ có khoảng 15 khoản đầu tư trong vòng 5 năm tới”.
Mở rộng ra Đông Nam Á
Hàng loạt các công ty khởi nghiệp của Việt Nam đã mở rộng hoạt động ra các nước trong khu vực Đông Nam Á như Appota, CleverAds và Peacesoft. Tuy nhiên, để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, Appota và Peacesoft nói rằng các doanh nhân trẻ cần phải hợp tác với các công ty địa phương. Có nhiều cách để một startup có thể hợp tác với các công ty trong nước thay vì bắt tay với các đối thủ trong cùng lĩnh vực.
Các công ty khởi nghiệp và quỹ đầu tư thành công trên toàn cầu cũng khuyên các doanh nhân trẻ nên thử nghiệm và tìm hiểu các mô hình của mỗi nước và chọn ra sản phẩm phù hợp để phát triển.
Ví dụ thành công điển hình là Foody.vn – một website tìm kiếm thức ăn đã nhanh chóng tiến ra thị trường Đông Nam Á (tại Singapore, Malaysia và Thái Lan). Tuy nhiên, họ sẽ phải mất từ 3 – 5 năm nữa để trở thành công ty giá trị 1 tỷ USD.
Việt Nam sẽ trở thành trung tâm khởi nghiệp
Hệ sinh thái khởi nghiệp đang đứng ở ngưỡng cửa trở nên hết sức “khổng lồ” theo Eryadi K. Masli – giảng viên tại đại học Swinburne, Australia nói.
Nhiều năm trước, thế giới không chú ý đến thị trường khởi nghiệp tại Việt Nam, nhưng hiện tượng Flappy Bird đã thay đổi quan điểm này. Rất nhiều công ty khởi nghiệp của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng.
“Con người Việt Nam thông minh, sự hỗ trợ từ chính phủ ngày càng nhiều và dòng vốn ồ ạt của các quỹ đầu tư sẽ giúp Việt Nam sớm trở thành địa điểm nóng nhất cho các công ty khởi nghiệp”.

Theo Trí Thức Trẻ/DealStreetAsia

Kỳ tích Israel: Trồng rừng, nuôi cá trên sa mạc, Việt Nam học được gì?

Để giải thích cho câu hỏi "vì sao một mảnh đất cằn cỗi như Israel lại có nền nông nghiệp hùng mạnh đến vậy" chỉ có một từ đó là: CÔNG NGHỆ.Kỳ tích Israel: Trồng rừng, nuôi cá trên sa mạc, Việt Nam học được gì?

Ai cũng biết Israel là đất nước non trẻ nằm ở bên bờ Địa Trung Hải có diện tích phần lớn là sa mạc khô hạn. Dẫu vậy, Israel lại khiến cả thế giới ngưỡng mộ với kỳ tích khó tin là phủ xanh cho sa mạc cằn cỗi và áp dụng công nghệ cao vào nông nghiệp.
Một số thành tựu khoa học kỹ thuật của Israel có thể kể đến như tái sử dụng nước thải để tưới tiêu cho cây trồng, thu nước mưa để tái sử dụng, tái xử lý nước trở thành nước sinh hoạt & uống được (tỷ lệ lên tới 75%), nông nghiệp trực tuyến và nuôi cá ngay trên sa mạc cằn cỗi… Ở Israel, nông nghiệp là lĩnh vực mà 95% là khoa học và chỉ 5% lao động.
Vậy đâu là điều tạo nên những kỳ tích đó, động lực nào khiến một đất nước nhỏ bé, cằn cỗi, nhiều thù địch như Israel lại tạo ra nền nông nghiệp kỳ diệu đến vậy?
“Hoạt động công xã thành công nhất thế giới”
Là lời mà các nhà sử học dùng để ca tụng Kibbutz – mô hình nông trang gần giống với hợp tác xã.
Đơn giản có thể hiểu Kibbutz là một cộng đồng nông thôn, một hệ thống kinh tế xã hội dựa trên nguyên tắc sở hữu chung tài sản, bình đẳng và hợp tác trong mọi mặt của đời sống, thực hiện lý tưởng một xã hội công bằng. Tại nông trang không có cảnh sát và tòa án. Trẻ em không sống tại nhà mà ở các nhà trẻ, được cả nông trang nuôi dưỡng, một ngày chỉ gặp cha mẹ vài tiếng.
Nông trang Mashabei Sadeh
Nhờ vào thành công của mô hình nông trang này, Israel đã trở thành quốc gia sản xuất nông nghiệp hàng đầu thế giới, dù 95% diện tích đất nước này được xếp vào loại bán khô hạn, khô hạn và rất khô hạn. Thậm chí trong khi trái đất đang bị sa mạc hóa, Israel là nước duy nhất đẩy lùi sa mạc. Thành tựu lớn nhất là trồng thành công một khu rừng ngay ở vùng đất sa mạc Negev: Rừng Yatir.
Ngày nay, tuy chiếm chưa đến 2% dân số Israel, nhưng những nông trang như Kibbutz sản xuất đến 12% lượng hàng hóa xuất khẩu của cả nước. Các nông trang cũng đóng góp đến 15% thành viên Knesset (Quốc hội Israel) và còn nhiều hơn thế cho lực lượng sĩ quan và phi công của quân đội.
Nông nghiệp Israel = 95% khoa học + 5% lao động
Giải thích cho câu hỏi vì sao một mảnh đất cằn cỗi như Israel lại có nền nông nghiệp hùng mạnh đến vậy chỉ có một từ đó là CÔNG NGHỆ.
Ở Israel, nước ngọt vô cùng khan hiếm. Họ phải sử dụng nước cực kỳ tiết kiệm. Trẻ em Israel được dạy tiết kiệm nước từ bé, 75% nước thải sinh hoạt được tái tạo sử dụng lại, nước qua hệ thống lọc trở thành nước tinh khiết có thể uống được ngay.
Tại quốc gia này, gần 95% khoa học công nghệ được áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp. Trên vùng đất bán sa mạc và sa mạc khắc nghiệt, những cánh đồng ô liu, cam, lựu, vải thiều, nho, chuối… vẫn xanh tươi mơn mởn, những khu nhà kính ngập tràn hoa, rau sạch, cà chua bi, cà chua nhót, dưa chuột, cà tím…
Tất cả cây trồng đều được ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt. Chất dinh dưỡng theo các ống dẫn nước tới từng gốc cây, gốc rau và được tưới bón nhỏ giọt tùy theo từng loại cây củ quả bởi một phần mềm điều khiển tự động sau khi đã nạp đủ thông tin về độ ẩm không khí, đất đai, tuổi và nhu cầu tăng trưởng của từng loại cây. Hệ thống này tự động đóng mở van khi độ ẩm của rễ cây đạt tới mức nhất định thông qua các cảm biến điện tử.
Công nghệ tưới cây nhỏ giọt từ không khí.
Hiện tại Israel đã lai tạo được giống cà chua chịu mặn đạt năng suất kỷ lục 120-150 tấn/ha. Ngoài trồng trọt, nền nông nghiệp Israel nổi tiếng với công nghệ chăn nuôi bò sữa cho năng suất cao nhất thế giới.
Cụ thể, theo thống kê trong năm 2013 của Volcani Center - trung tâm nghiên cứu trực thuộc chính phủ Israel, trung bình các đàn bò tại quốc gia này đạt sản xuất ra 11.500 lít sữa/con/năm, trong khi đó con số này ở New Zealand là 4.000 lít, ở Hà Lan 8.000 lít và ở Mỹ là 9.000 lít. Chất lượng sữa cũng vào loại tốt nhất, lượng đạm và chất béo cao hơn hẳn các loại sữa khác.
Người Israel còn nuôi trồng thủy sản với năng suất cực cao và chất lượng siêu sạch, thu lãi ròng từ 1,5 – 3 USD/kg. Tại một cơ sở nuôi cá siêu thâm canh, họ đặt 40 bể nhựa tròn trong nhà có mái che. Mỗi bể có thể tích 15 m3, mỗi vụ nuôi được 1,5 tấn cá, một năm nuôi 2 vụ thu được 3 tấn cá. Mỗi năm cơ sở này sản xuất khoảng 120 tấn cá.
Một trang trại nuôi cá ở Israel.
Bằng việc áp dụng những sáng tạo khoa học công nghệ cao như vậy, nông dân Israel phải bỏ ra rất ít công sức lao động chân tay (khoảng 5%) nhưng vẫn thu được năng suất cao.
Bài học cho Việt Nam
Là một đất nước khô hạn, phần lớn diện tích là sa mạc, nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt 3,5 tỷ USD với giá trị gia tăng rất lớn. Còn theo số liệu từ Bộ Công Thương, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam năm 2014 đạt hơn 30,8 tỷ USD.
Cần lưu ý, diện tích của Việt Nam là 330 nghìn km2, và Israel là 20,77 nghìn km2. Tức là, Việt Nam rộng hơn Israel 16 lần, nhưng kim ngạch xuất khẩu nông sản chỉ cao hơn Israel 8,8 lần.
So sánh tiếp theo càng khiến chúng ta phải suy nghĩ: Israel - một quốc gia không có tài nguyên thiên nhiên, phần lớn là đất sa mạc, nhiệt độ quanh năm vô cùng nóng bức khoảng 50 độ C. Quốc gia còn lại - Việt Nam, có nguồn tài nguyên phong phú, các điều kiện thổ nhưỡng - nhiệt độ - ánh sáng - độ ẩm - nguồn nước đều vô cùng thuận lợi để phát triển nông nghiệp đa dạng, trải dài từ khí hậu ôn đới đến nhiệt đới.
Ông Dương Đức Lân - Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ-TB&XH) từng cho ý kiến tại một sự kiện: “Ở các nước phát triển, nông nghiệp chỉ chiếm từ 3-5 % lao động. Tại Việt Nam, nông nghiệp chiếm tới 47% lao động nhưng chỉ tạo ra sản lượng GDP 14%”.
Hiện tại, hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là xuất thô nên giá trị gia tăng thấp. Giá bán nhiều mặt hàng nông sản Việt thường thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực.
Gạo Việt Nam giá bán luôn thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan từ 3-5%, chè đứng thứ 5 về sản lượng nhưng xếp thứ 10 về giá bán, sản lượng cá tra Việt Nam chiếm đến 90% thị phần trên thế giới nhưng giá bán lại thấp hơn 20-30% so với các sản phẩm tương tự của quốc gia khác.
Việc học hỏi và ứng dụng thành tựu nông nghiệp công nghệ cao từ Israel đã được một số doanh nghiệp quan tâm và thực hiện. Điển hình như THMilk (công nghệ nuôi bò sữa), Hoàng Anh Gia Lai (công nghệ tưới nhỏ giọt) hay mới đây là Vingroup (trồng rau với công nghệ tưới nhỏ giọt/làm nhà kính). Phải chăng đã đến lúc các doanh nhân Việt Nam tìm ra công thức thành công từ Israel cho nền nông nghiệp nước nhà?
 
Vân Đàm
Theo Trí Thức Trẻ

Những Bầy Sâu

Tuesday, August 25, 2015

Lễ Vu Lan, chữ "hiếu" không nằm ở mâm cao, cỗ đầy

Sưu tầm
07:45' PM - Thứ ba, 25/08/2015Đốt vàng mã đồng nghĩa với đốt tiền thật
Theo giáo lý Phật giáo, Vu Lan là lễ thường niên để tưởng nhớ, báo hiếu tổ tiên, ông bà, cha mẹ - những người đã khuất. Nhiều người đã thể hiện sự "hiếu thảo" của mình bằng cách mua nhà lầu, xe hơi, tiền vàng âm phủ để đốt "gửi" cho những người đã chết. Có những gia đình đã đầu tư hàng chục triệu đồng để mua sắm lễ vật, bày cỗ to, cỗ nhỏ, để cầu cúng và hy vọng "người âm" sẽ được hưởng…

Những cách làm đó có tốt không? Câu hỏi này sẽ được các cao tăng, chuyên gia Phật học tên tuổi giải đáp.

Vì sao có lễ Vu Lan?

Kinh Vu Lan Bồn kể rằng, Mục Liên là một trong mười đệ tử tiêu biểu của Đức Phật. Ngài được coi là thần thông số một. Tuy nhiên, mẹ ngài là bà Thanh Đề, khi còn sống đã làm nhiều điều bạc ác. Sau khi bà Thanh Đề chết, Mục Liên dùng "thiên nhãn thông" để quan sát khắp mọi cõi mới nhìn thấy mẹ mình bị đầy đoạ nơi địa ngục. Nơi đó đầy rẫy quỷ đói, còn bà Thanh Đề thì gày còm ốm yếu, chỉ còn da bọc xương, ngày đêm đau khổ.

Với khả năng thần thông quảng đại của mình, ngài Mục Liên đã dùng bình bát đựng cơm đưa đến dâng mẹ nhưng do "ác nghiệp" quá nặng nên cơm, đồ ăn đều biến thành lửa đỏ than hồng. Bất lực trước sự đau khổ của mẹ, ngài Mục Liên cầu xin Đức Phật chỉ dạy phương pháp để cứu mẹ khỏi chốn lưu đày. Đức Phật bày cho cách, vào ngày Rằm tháng Bảy, hãy đem đồ ăn thức uống ngon quý, hoa quả cúng Phật và Chư tăng trong mười phương, thì mẹ ông thoát khỏi khổ nạn. Mục Liên vâng theo lời Phật hồi hướng công đức về cho mẹ mình ở dưới địa ngục, khiến bà Thanh Đề đã được thoát thân ngạ quỷ, vãng sinh tịnh độ...

Với quan niệm đó, nhà Phật cho rằng tinh thần cốt lõi nhất trong ngày lễ Vu Lan dịp Rằm tháng Bảy là chữ "hiếu". Đối với đạo Phật, thực hành hiếu thảo cũng là con đường của mọi Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể gọi là một Phật tử chân chính được.

Vu Lan - những quan niệm sai lầm!

Tuy nhiên ngày nay, lễ báo hiếu theo tháng năm và những cách suy diễn dân gian đã bị biến tướng quá nhiều. Người ta coi đây như một dịp để thể hiện sự báo hiếu sai cách, hoang phí, xa xỉ nhằm cầu mong những điều viển vông, khó có thật trong cuộc sống.

Một trong những điển hình "sống" mà chúng tôi có dịp gặp tại cửa hàng vàng mã số 3 phố Hàng Mã (Hà Nội) là ví dụ. Hai mẹ con nhà bà Bình, đang ì ạch khiêng cả đống đồ hàng mã đủ loại như: Nhà lầu, xe hơi, tivi, tủ lạnh, vàng thoi, bạc nén, đôla, tiền giấy... lên chiếc xe hơi sang trọng để chuẩn bị cho ngày lễ Vu Lan năm nay.

Bà Bình hồ hởi nói: "Năm nay cúng biếu đủ thứ đồ dùng trên dương gian cho các cụ cho cái tâm mình nó thoải mái. Ngày ông bà còn sống, đau ốm liên miên nhưng vợ chồng tôi mải lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc được. Bây giờ cha mẹ đã khuất núi thì phải chuộc lỗi, báo hiếu với các cụ. Cỗ cúng cũng sẽ làm lớn cho các cụ đỡ tủi thân"...

Cùng cách nghĩ với bà Bình, anh Trịnh Đình Dương, trú tại phố Trần Nguyên Hãn, Hà Nội giọng tha thiết: "Ngày các cụ còn sống thì gia cảnh nghèo hèn, khi con cháu có của ăn, của để thì các cụ lại không còn nữa. Vậy nên tôi muốn nhân dịp này gửi thật nhiều đồ dùng và tiền vàng cho các cụ thoải mái tiêu xài. Để dưới đó các cụ thoải mái đi du lịch, đi đền, đi chùa cầu khấn cho con cho cháu, không phải lo tiết kiệm chi tiêu như khi còn sống"(?!).
Không chỉ bà Bình, anh Dương mà hàng ngàn, hàng vạn gia đình khác cũng đã và đang chuẩn bị rất nhiều tiền giấy, vàng mã cùng các thứ đồ xa xỉ khác để đốt cho người chết trong dịp lễ Vu Lan, Rằm tháng Bảy này. Họ quan niệm đó là "báo hiếu" dù chẳng biết làm vậy là đúng hay sai, tốt hay xấu?

Tinh thần cốt lõi nhất trong ngày lễ Vu Lan dịp Rằm tháng Bảy là chữ "hiếu"

Chữ “hiếu” không nằm ở mâm cao, cỗ đầy

Hoà thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TW Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng: "Chữ "hiếu" không nằm ở mâm cao cỗ đầy mà ở thái độ của những người con, ở tấm lòng thành kính, ở cách sống và làm việc của họ trong xã hội, kể cả cách truyền tư tưởng hiếu đạo với thế hệ sau.

Ân đức của cha mẹ là trời bể, người con có làm gì đi nữa, lòng của người con đối với cha mẹ không thể sánh được lòng của cha mẹ đối với con cái. Theo đó, hiếu thảo với cha mẹ là một đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng, đức tính ấy được coi như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội".
Thượng tọa Thích Duy Trấn, trụ trì chùa Liên Hoa (đường Thái Phiên, quận 11, TPHCM) từng nghĩ ra cách treo trước cửa chùa bảng thông báo: "Không cần đốt giấy tiền vàng mã, mà chỉ cần lời kinh, tiếng kệ để hồi hướng. Vì người quá cố không thể thừa hưởng số giấy tiền vàng mã do con cháu đốt cho". Chính vì lẽ đó mà theo Thượng toạ Thích Duy Trấn cúng mâm cao cỗ đầy, đốt nhiều hàng mã, mua nhiều con vật để phóng sinh không phải cách thể hiện chữ "hiếu" đúng nghĩa.
Sưu tầm

Khi sự tinh tế cắp nón ra đi...

Phạm ToànTuần Việt Nam (2010)Khi sự tinh tế cắp nón ra đi...
10:27' AM - Chủ nhật, 23/08/2015
Đây là một cách nhìn của một nhà giáo đồng thời cũng là người Hà Nội gốc. Chuyện nữ sinh đánh nhau và ngang nhiên quay hình ảnh xấu xa đó tung lên mạng, chúng ta nên quy lỗi cho ai?
Bắt cả nền văn hóa từ chức?
Thời xưa, để chỉ bằng một nét cũng đủ diễn tả hình ảnh người con gái Hà Nội, thì đã có câu nói "cọng giá cắn làm đôi". Cô gái Hà Nội xưa được hình dung có vóc dáng mảnh mai, ăn uống nhỏ nhẻ như mèo, chưa ra đường mà chỉ ở trong nhà cũng ăn mặc lịch sự, còn lời ăn tiếng nói thì hết sức dịu dàng, trang nhã, nền nã.
Riêng chuyện ăn mặc chẳng hạn, thì đến các chị hàng rong cũng mặc thứ áo dài tứ thân đã tạo dáng cho áo dài Lemur những năm Thơ Mới thời họa sĩ Lê Phổ. Chiếc áo dài của chị hàng rong và cô gái Hà Nội chỉ khác nhau ở chất vải. Còn thái độ người mặc áo thì cả hai đều như nhau, cái thái độ đúng mực để không người lạ mặt nào ở ngoài đường dám sàm sỡ với các cô.
Vào thời đó hoàn toàn không thể có và không bao giờ có chuyện ông xe ôm ghếch chân trên càng xe, tay ngừng nhổ râu, hất hàm nói trống không với cô gái đi đường "Xe ôm không em, anh chở?"
Một hiện tượng như vậy so với hình ảnh cô gái cọng giá cắn đôi trong quá khứ chỉ có thể dẫn ta tới ý nghĩ: Cái tinh tế Hà Nội đã cắp nón ra đi từ lâu rồi.
Đổ lỗi cho ai hoặc cho cái gì cũng đều không thỏa đáng.
Có một thời sục sôi cách mạng, Independence or Death ("Độc lập hay là Chết"), thì "giặc đến nhà đàn bà phải đánh". Không chỉ ra trận, mà chính sự việc ra trận khiến cái bình đẳng thoát khỏi hình hài một khẩu hiệu để trở thành một sức mạnh vật chất hiện thực. Vậy, cái gì sau khi chiến đấu thắng lợi đã đẩy người đàn bà trở về vị trí của những "em ơi..."? Dĩ nhiên, trong việc này, dù đàn bà có phạm sai lầm, ta cũng không thể dựa vào đó mà bắt chị em phải từ chức!
Vậy chẳng nhẽ lại bắt cả nền văn hóa phải từ chức? Hay là bắt pháp luật từ chức? Hay là bắt cả xã hội, bắt toàn dân từ chức?
Không thể bắt cả xã hội từ chức, song ai ở địa hạt nào, xin hãy thử tự vấn coi.
Khi nhìn vào nền giáo dục đương thời, ta chỉ cần đặt ba câu hỏi này rồi sẽ cùng lần lượt xét đoán:
Trẻ em sáu tuổi đã nói sõi, đã hoàn toàn là người Việt Nam về vốn ngôn ngữ, thả vào đời chỉ bằng vốn ngôn ngữ đã có cũng đủ sống: Vậy trong 12 năm học ròng rã, các em cần học những gì và đã được học những gì?
Hãy nhìn vào những cuốn sách giáo khoa và câu trả lời hiện ra ngay lập tức: Các cháu đã chẳng học được bao nhiêu điều cho tương lai. Các cháu có biết thảo luận không? Có biết tìm xung đột và cùng nhau giải quyết xung đột không? Có biết chỉ dùng ngôn ngữ thôi mà "tổ chức" lại được cái xã hội có những kẻ cao tuổi bất cần đời bạ đâu cũng gọi các cháu (ngay cả khi đã lớn) bằng "em ơi, ôm không?"
Trẻ em như được đào tạo hôm nay tại trường phổ thông liệu có đủ sức trở thành nguyên liệu đầu vào cho hệ thống học nghề không? Các em có đủ trí tuệ và tinh thần kỷ luật để thực sự tham gia vào guồng máy công nghiệp để công nghiệp hóa đất nước không? Một đống nguyên liệu thô như thế liệu sau khi đem trộn với hàng tấn vàng hoặc được vay mượn bằng vài trăm triệu đô-la, liệu chúng có đủ sức làm thành những trường đại học chuẩn mực quốc tế không?
Trẻ em như cung cách chúng đang sống hôm nay, còn những người lớn chúng ta nếu dửng dưng với vận mệnh đất nước, liệu có dạy các em thành những người sống xả thân vì nước không?
Liệu trẻ em có được dạy thực - học thực - sống thực?
Có bao nhiêu trẻ em biết là hiện nay ở mười tỉnh xung yếu chúng ta đã cho thuê hơn 300 nghìn hecta đất rừng và cho thuê hẳn trong 50 năm, nghĩa là thời gian đủ để em bé lớp 12 năm nay thành những cụ già 70 tuổi thì mới hết hạn cho thuê (để nối sang kỳ hạn cho thuê mới), chờ đợi con cháu các học trò này cũng lụ khụ 70 không còn đất để lao động và để sống.
Không thấy một nhà giáo dục nào làm những thống kê thực chứng xoay quanh đề tài đó. Bản thân nhà giáo hờ hững như vậy, trách gì con trẻ chẳng để thời gian rảnh rỗi đi đánh nhau và quay phim rồi tung lên mạng chơi?
Xã hội, và người lớn chúng ta đang có lỗi lớn, đó là không dạy cho thế hệ trẻ sống đời sống thực.
Thứ nhất là việc làm. Thì đấy, thí dụ như vụ cho "thuê rừng" đang ầm ĩ cả nước, vì chỉ có người mất trí mới không nghĩ được rằng 50 năm "cho thuê" là một thời hạn dài ngang với cuộc thách thức xin lấy con gái vua với điều kiện dạy được cho khỉ biết nói trong cổ tích.
Thứ hai, giáo dục và người lớn chúng ta đang dạy những chuyện trên trời dưới biển đâu đâu, không dạy cho tuổi trẻ nhìn thẳng vào thực tiễn đất nước, nói những lời mà chính người lớn có khi cũng không tin là sẽ thành hiện thực.
Và còn lại những tấm lòng trung trinh, thì có câu hỏi: Cái tinh tế thanh lịch Thủ đô ngàn năm đã đội nón ra đi. Biết bao giờ trở lại thời hoàng kim xưa, khi ăn thì cọng giá cắn đôi, và khi ra đường các cô gái không bao giờ bị hất hàm hỏi "Ôm không, hử?"

Tư duy địa kinh tế - địa chính trị


08:34' AM - Thứ hai, 24/08/2015Tư duy địa kinh tế - địa chính trị
Nguyễn Trần BạtChủ tịch/ Tổng giám đốc InvestConsult Group - Suy Tưởng
Gần ba mươi năm trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, khoảng thời gian đủ dài để một đất nước phát triển tới tầm cao mới về chất, nhưng Việt Nam vẫn không thể phát triển, trái lại vẫn mắc kẹt trong những tình thế kinh tế - chính trị bất lợi. Nguyên nhân của tình trạng này có phần rất lớn thuộc về trách nhiệm của công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế.
Thế giới có nhiều kinh nghiệm tốt, nhiều tấm gương thần kỳ trong phát triển kinh tế, nhưng Việt Nam không thể máy móc làm theo, lý do đơn giản là thời thế đã thay đổi và Việt Nam không giống họ. Chiến lược phát triển kinh tế cũng không thể chạy theo những ảo vọng chính trị, bất chấp thực tế cuộc sống. Một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý phải căn cứ vào điều kiện và thực lực của đất nước, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Với tư tưởng chủ đạo trên, khoa học về địa chính trị và địa kinh tế sẽ là những công cụ quan trọng giúp chúng ta hoạch định được một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý và khả thi nhất.

1. Tư duy mới bắt nguồn từ sự thay đổi của Thời đại

Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này. Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết domino chính trị là ví dụ rõ nét về địa chính trị. Học thuyết này đã ám ảnh các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía Nam, làm cho Hoa Kỳ ngày càng dính líu và cuối cùng can dự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Chiến tranh Lạnh kết thúc làm mỗi quốc gia phải thay đổi nhận thức về các giá trị và lợi ích để phù hợp với trật tự thế giới mới. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới xuất hiện ngày càng nhanh và nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem xét lại. Cũng trong trạng thái phát triển mới này của thế giới, nhiều quan niệm địa kinh tế và địa chính trị truyền thống trở nên lỗi thời và cần được thay thế bằng những quan niệm mới phù hợp với thời đại. Để xây dựng những quan niệm mới, trước hết, chúng ta cần nhận dạng đúng xu thế và các nhân tố mới đang quyết định đến tiến trình phát triển của thế giới đương đại.
Thứ nhất, toàn cầu hóa đang trở thành xu thế nổi bật tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển và đạt được những thành công lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà trên mọi lĩnh vực của cuộc sống kể cả văn hóa, chính trị, mang lại cho các quốc gia cơ may phát triển, chia sẻ những kinh nghiệm, ưu thế và cả rủi ro giữa các quốc gia và khu vực. Những thành tựu đầy sức thuyết phục của Trung Quốc kể từ khi nước này mở cửa, sự trì trệ, bế tắc của một số quốc gia biệt lập như Afghanistan, Iraq, CHDCND Triều Tiên... là những ví dụ tương phản rõ nét nhất về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với mỗi cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, các lực lượng đa quốc gia, đặc biệt là công ty đa quốc gia và các công ty nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia mà họ có mặt. Đóng góp của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế của mỗi nước ngày càng lớn. Điều này đúng với cả trường hợp Hoa Kỳ, nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Vào năm 1996, các công ty loại này sản xuất 15,8% giá trị sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 13,2% năm 1988 và chỉ 8,8% năm 1985. Tại Anh, Canada, Thụy Điển cũng có khuynh hướng tương tự. Thậm chí các hãng nước ngoài ở Ireland còn chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều, sản xuất ra 66% sản lượng hàng hóa và sử dụng 47% nhân lực của quốc gia này. Những nét phác thảo trên cho thấy, mọi quốc gia, kể cả những quốc gia phát triển nhất, ngày càng lệ thuộc và gắn bó mọi mặt với nhau, và vì vậy, để phát triển, Việt Nam càng không thể đứng ngoài quy luật chung này.
Cuối cùng và đặc biệt quan trọng là, thế giới ngày càng bị ảnh hưởng và chi phối bởi các cường quốc. Trong nửa đầu thế kỷ XXI, các cường quốc vẫn tiếp tục là lực lượng thao túng hệ thống chính trị, kinh tế toàn cầu. Điều đáng lưu ý là, trước đây, các cường quốc tạo ra thế lưỡng cực, còn hiện nay, các cường quốc ảnh hưởng một cách đa chiều đến mức nhiều người nhầm lẫn thế giới phát triển theo xu thế đa cực. Thực ra thế giới không đa cực. Nếu trong nửa đầu thế kỷ này, người Mỹ không cải thiện về mặt văn hóa, không đổi mới chính trị để có thể lãnh đạo thế giới một cách đồng thuận, Hoa Kỳ sẽ không có phẩm chất của một quốc gia lãnh đạo thế giới, có nghĩa là thế giới vẫn trong trạng thái vô cực.

2. Địa kinh tế và địa chính trị - Khoa học của những quan niệm động

Trong thời đại chúng ta không thể tiếp tục nhận thức thế giới theo những quan niệm có tính bất biến, những quan niệm mới về địa chính trị và địa kinh tế mà chúng ta phát triển phải có đặc tính động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của thế giới năng động ngày nay.
Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Thí dụ, Việt Nam có vị trí liền kề với Trung Quốc, nhưng nếu quốc gia khổng lồ này không tích cực đổi mới như hiện nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 - 70, thì đặc điểm địa chính trị của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Việc xuất hiện những con rồng châu Á như Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc làm thay đổi nhiều đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh tế của khu vực thay đổi, và bởi vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay, các diễn biến chính trị, kinh tế - xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền của thế giới. Trước đây, với Việt Nam, Trung Quốc là láng giềng còn Hoa Kỳ là miền đất rất xa xôi, nhưng quan niệm này nay đã thay đổi cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với APEC, với diễn đàn Á - Âu, nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt Nam cả về chính trị cũng như kinh tế - xã hội.
Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho việc xử lý các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt hơn.Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá khứ, do sự xâm nhập của các lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế.Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia thường đan xen lên nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi. Chẳng hạn, khi bất đồng với EU trong vấn đề Iraq, Hoa Kỳ không thể trừng phạt kinh tế các công ty EU vì trong đó có lợi ích của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Những quan niệm mới trên sẽ giúp chúng ta đánh giá xác thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt, dễ dàng điều chỉnh trước một thế giới năng động, phức tạp và nhiều rủi ro của hiện tại và tương lai.

3. Khai thác ưu thế địa chính trị và địa kinh tế

Vận dụng tư duy mới để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam phải kết hợp giữa khai thác triệt để các ưu thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước với việc thực thi một chính sách hợp tác kinh tế quốc tế sáng suốt. Một chiến lược như vậy sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế - chính trị toàn cầu.
Trước hết, để có một chiến lược phát triển kinh tế đúng, chúng ta phải hiểu mình, hiểu cấu trúc lực lượng xã hội, hiểu trạng thái hiện tại, những gì chúng ta đang có và mục tiêu chúng ta cần vươn tới. Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng. Việt Nam là một quốc gia không có nhiều truyền thống kinh doanh. Lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đạt được thành tích đáng kể trong nông nghiệp nhưng trên tổng thể, nông nghiệp cũng phơi bày những điểm yếu cơ bản của chúng ta. Hiện nay, 70 đến 80% lực lượng lao động Việt Nam đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo được rất ít giá trị gia tăng. Chúng ta phải phát triển những ngành kinh tế làm ra nhiều giá trị gia tăng, phải phấn đấu để sao cho trong vòng 15 đến 20 năm tới có được một tỷ lệ lao động như vậy làm việc trong các ngành kinh tế mới này.
Tiếp đó, chúng ta phải hiểu người, tức các quốc gia, các thể chế quốc tế, chấp nhận họ như những đối tác và cũng có thể là đối thủ cạnh tranh. Hiểu để hợp tác và khai thác sức mạnh của các đối tác, hạn chế những thế mạnh của đối thủ cạnh tranh. Nhưng dù là đối tác hay đối thủ, họ đều có ích cho chúng ta và trên những khía cạnh và mức độ khác nhau, họ đều tham gia vào quá trình đổi mới, phát triển của Việt Nam. Hiểu được điều này chúng ta sẽ có thái độ trân trọng và có cách đối thoại, hợp tác có hiệu quả nhất với các đối tác bên ngoài.
Điều cuối cùng, việc khai thác các ưu thế địa chính trị và địa kinh tế luôn phải gắn với xu thế và các nhân tố chủ yếu quyết định đến tiến trình phát triển của thời đại. Vận dụng tư duy mới trong địa kinh tế và địa chính trị, chúng ta có thể tránh được những sai lầm của quá khứ trong công tác hoạch định chiến lược phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tự do thương mại bùng nổ như hiện nay, chúng ta không nhất thiết phải làm lại những gì thế giới đã làm mà cần ưu tiên khai thác thế mạnh của mình để chủ động gia nhập quá trình này. Chỉ có như vậy chúng ta mới xác lập được vị trí xứng đáng của Việt Nam trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Trong khuôn khổ hạn chế, bài viết này không có tham vọng vạch ra một cách chi tiết, mà chỉ mong muốn đưa ra một phác thảo cơ bản nhất cho chiến lược phát triển kinh tế mới của Việt Nam trong khoảng thời gian 15 đến 20 năm tới.
Phát triển kinh tế mềm để điều chỉnh và thích ứng trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động
Tư duy địa chính trị và địa kinh tế mới cho thấy không thể xây dựng kinh tế theo cấu trúc cứng nhắc và càng không thể phát triển Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa. Việt Nam hiện đại hóa mà không cần và không nhất thiết phải công nghiệp hóa. Công nghiệp không phải là một thế mạnh của Việt Nam, hãy để cho Trung Quốc và các nước khác làm công nghiệp. Chủ trương công nghiệp hóa chỉ hướng phát triển kinh tế Việt Nam cho những mục tiêu trong nước mà không thấy được Việt Nam cần phát triển kinh tế để đáp ứng đòi hỏi của thị trường khu vực và thế giới. Nếu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, chúng ta sẽ tiếp tục đánh mất những ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của mình. Công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là sự bất khả thi về vốn đầu tư, mà về bản chất chỉ là sự làm lại những gì thế giới đã làm nhưng luôn thua kém về trình độ, và do vậy, không thể cạnh tranh với các quốc gia công nghiệp đi trước. Công nghiệp hóa sẽ dẫn đến một cơ cấu kinh tế cứng, khó thích ứng và rất khó điều chỉnh trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động.
Việt Nam nên phát triển kinh tế mềm, trở thành một quốc gia cung cấp dịch vụ cho khu vực và thế giới, bởi đất nước ta án ngữ một dải rất rộng vùng Đông Nam á, là cửa ngõ thông ra thế giới của một khu vực rộng lớn từ Lào đến Campuchia, toàn bộ miền Đông - Bắc Thái Lan và miền Bắc Miến Điện. Với việc phát triển kinh tế dịch vụ, Việt Nam sẽ có vị thế quan trọng trong việc hỗ trợ quá trình phát triển tại khu vực. Hạt nhân cấu trúc kinh tế mềm của Việt Nam dựa trên phát triển kinh tế dịch vụ, đặc biệt là du lịch và ngành kinh tế biển. Ví dụ như khu vực Hạ Long, 30 năm trước đây là một trung tâm công nghiệp khai thác mỏ, cung cấp than để công nghiệp hóa đất nước, một thành phố bụi bặm với những con người lầm lũi. Bây giờ, Hạ Long có ngành kinh tế du lịch với Vịnh Hạ Long nổi tiếng và khu nghỉ mát Tuần Châu hiện đại. Du lịch sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn than, giúp vùng than đoạn tuyệt với quá khứ lầm than và ngày càng trở nên tươi đẹp
Trục Đông - Tây, con đường hội nhập quốc tế và phát triển nhanh nhất
Trước đây, người Pháp phân chia Việt Nam thành ba kỳ theo trục Bắc - Nam, nhưng với quan điểm địa kinh tế hiện đại, cách phân chia này đã trở nên lạc hậu. Ngày nay, Việt Nam cần phát triển theo hướng Đông - Tây thay vì theo trục Bắc - Nam như cũ. Việt Nam phải phát huy thế mạnh của đất nước có hơn 3000 km bờ biển trong bối cảnh đại dương là một vùng kinh tế được khai thác mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Vận tải đường biển với chi phí thấp và năng lực chuyển tải lớn sẽ nối thế giới với Việt Nam đi tới các khu vực kém phát triển của các quốc gia láng giềng phía Tây. Phát triển lan truyền theo trục Đông - Tây thể hiện tư tưởng hội nhập quốc tế và tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh và hiệu quả hơn nhiều so với trục Bắc - Nam.
Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam hỗ trợ các vùng lạc hậu của Trung Quốc phát triển? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Nếu không nhận thức được điều này, tiếp tục phát triển Việt Nam theo trục Bắc - Nam sẽ dẫn đến nhiều sai lầm, kể cả trong việc phân bổ quyền lực bộ máy lãnh đạo. Chiến lược phát triển theo trục Đông - Tây, xây dựng các đô thị ven biển làm hạt nhân và tạo nguồn động lực lan truyền quá trình phát triển tới các vùng sâu của Việt Nam và đi tới các quốc gia láng giềng, sẽ mang lại nhiều cơ may và lợi ích to lớn cho Việt Nam và cả khu vực.
Phát triển theo trục Đông - Tây, với việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển, không chỉ giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, không những tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường Trung Quốc rộng lớn mà còn cải thiện đáng kể khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khổng lồ này. Nếu không phát triển theo trục Đông - Tây, Việt Nam không khai thác được các ưu thế về địa kinh tế của mình và càng trở nên bị động và lúng túng trong cuộc cạnh tranh với một nước Trung Quốc có quá nhiều ưu thế. Chỉ khi nào công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt được trình độ phát triển cao thì trục Bắc - Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, những hàng hóa có chất lượng quốc tế cũng như nguồn công nghệ cao vào Việt Nam từ phía Đông mà không phải từ phía Bắc, trục Bắc - Nam không những không tác động tích cực, thậm chí còn có nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi luồng hàng hóa vào Việt Nam theo trục này thường là hàng hóa của nền công nghiệp hương trấn địa phương với chất lượng thấp và có nhiều biểu hiện vi phạm các quy định thương mại quốc tế.
Thái độ chính trị sáng suốt cho một chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế hiệu quả
Trong tư duy địa chính trị và địa kinh tế hiện đại, một chiến lược hợp tác kinh tế hiệu quả phải gắn liền với một đường lối hợp tác chính trị sáng suốt. Bởi vậy, trước tiên chúng ta cần phác thảo những nét chủ yếu để nhận diện các đối tác chính trị quan trọng nhất.
Hoa Kỳ với vai trò cường quốc số một thế giới, luôn quan tâm đến cả thế giới, tuy nhiên, do năng lực không phải là vô hạn, Hoa Kỳ chỉ đặc biệt chú trọng đến một số đối tác và khu vực quan trọng nhất. Trung Quốc đặt trọng tâm những mối quan tâm vào toàn bộ châu á và ngày càng quan tâm hơn đến khu vực ASEAN, nhưng do những vấn đề của chính mình, giữa tham vọng và năng lực của quốc gia này còn là một khoảng cách lớn. Trung Quốc để ý đến Việt Nam nhiều nhất trong số các quốc gia láng giềng phía nam vì những quan hệ vốn có trong lịch sử và vì Việt Nam là một quốc gia với 80 triệu dân, có một vị trí đáng kể trên trường quốc tế. Trung Quốc có thể thông qua Việt Nam để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khối ASEAN. Ngoài ra, còn phải kể đến Nhật Bản, nước cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực, và do vậy cũng chú ý nhiều đến Việt Nam trong chiến lược Đại Đông á của họ.
Việt Nam không phải là một nước lớn nhưng cũng không bao giờ là một quốc gia nhỏ bé. Trong bảng xếp hạng thế giới, với vị trí thứ 15-16 về dân số và 66 về diện tích, đáng lẽ phải là một quốc gia có ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế nhưng chúng ta đã phạm phải sai lầm trong phát triển, bỏ lỡ nhiều cơ hội, thời gian và công sức nên Việt Nam vẫn chưa có vị thế tương xứng với tầm vóc của mình.
Chúng ta đang sống trong thời đại của đối thoại và hợp tác quốc tế, nhưng dường như chúng ta vẫn tiếp tục xem quá khứ là đối tác quan trọng nhất. Thế hệ hiện tại thỏa hiệp với những yêu cầu của thế hệ đi trước làm cho sự phát triển của Việt Nam tiến triển rất chậm chạp. Cũng vì ít tham gia đối thoại chính trị quốc tế nên Việt Nam chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả. Hội nhập trong nỗi lo sợ đánh mất mình và diễn đạt sự bảo vệ bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa thành vỏ bọc nhằm bảo tồn cả những yếu tố đã lạc hậu của hệ thống chính trị, làm cho mọi hoạt động chính trị của Việt Nam về cơ bản là đàm phán và thỏa hiệp với quá khứ. Chừng nào chưa thoát khỏi sự chi phối của quá khứ thì Việt Nam vẫn chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả và chúng ta vẫn chỉ là một quốc gia tự náo nhiệt mình.
Chiến lược hợp tác quốc tế sáng suốt và hợp lý nhất của Việt Nam trong vòng nửa đầu thế kỷ XXI là mở cửa sang phương Tây, hợp tác triệt để với Hoa Kỳ, chung sống hòa bình với Trung Quốc. Chúng ta không mong đợi nhiều từ Trung Quốc nhưng hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến lược hợp tác và cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới này không có một nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sĩ nhỏ bé nhưng người Thụy Sĩ sống tốt bên cạnh châu Âu hùng mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất những máy móc tinh vi. Kinh nghiệm của người Thuỵ Sĩ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy Việt Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh một nền kinh tế lớn như Trung Quốc.
Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu. Hoạch định chiến lược phát triển là sự quy hoạch tương lai, đòi hỏi nhiều sáng tạo của trí tưởng tượng, tính năng động và sự sáng suốt khoa học. Trong một thời gian dài bị chi phối bởi những tham vọng chủ quan, kinh tế Việt Nam luôn bị đặt vào tình thế bị động, lúng túng đối phó trước thực tế phát triển. Nguyên nhân có phần do chúng ta đã bỏ qua hoặc xử lý thiếu hiệu quả các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế khi hoạch định chiến lược phát triển cho đất nước. Không thể dựa vào ảo tưởng chính trị để đưa ra những mục tiêu nhằm tự huyễn hoặc mình và cũng không thể sao chép, lặp lại những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Trong nhiệm vụ khó khăn và phức tạp này, vận dụng một cách sáng tạo những quan niệm khoa học hiện đại về địa chính trị và địa kinh tế sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm của quá khứ. Chỉ có sự sáng suốt khoa học mới có thể đưa ra một quyết sách chiến lược phát triển kinh tế hợp lý nhất, con đường đúng đắn và nhanh nhất đi tới tương lai, hội nhập vào trào lưu chung của thời đại. Chính trong quá trình này chúng ta sẽ tìm lại được chính mình, một nước Việt Nam mới, giàu mạnh và phát triển.
Suy Tưởng

Bàn thêm về Trần Trọng Kim

Bàn thêm về Trần Trọng Kim

Vũ Ngọc KhánhVăn hóa Nghệ An (2010)
01:56' PM - Thứ ba, 25/08/2015
Tôi nghĩ rằng chúng ta nên có một cuộc hội thảo khoa học về Trần Trọng Kim. Đã có nhiều ý kiến trao đổi, nhưng nhận định chung hình như chưa thật thoả đáng lắm. Ngay gần đây trên tạp chí Xưa và Nay (bài của Hà Vinh) và trên tạp chí Văn Nghệ (bài của Đặng Minh Phương), ý kiến cũng rất khác nhau. Trao đổi về ông cũng là một dịp làm sáng tỏ sự thật.

Từ những năm 1940 trở về trước, Trần Trọng Kim đã được dư luận đánh giá cao. Ông được xem là một nhà giáo gương mẫu, một học giả bậc thầy, một con người nghiêm túc. Nhưng từ 1945, ông bị vướng vào một hoạt động chính trị để mang cái tiếng không hay, thậm chí có thể xem là nhục nhã. Ra làm thủ tướng, ông bị các báo chí bí mật chửi rủa nặng nề. Chu Lang làm thơ ghét bỏ thẳng thừng: “Ngực đeo cái biển Việt gian, cúi đầu bái tạ thiên hoàng phía đông”. Sau cách mạng tháng 8 thành công, người ta không nhắc đến ông nữa. Cả về mặt học thuật, ông cũng bị đánh giá thấp. Trần Huy Liệu trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã phê phán cuốn Việt Nam sử lược, cho là nặng quan điểm thực dân. Rồi đến năm 2001, trên báo Tiền Phong (số 17), Bùi Thiết xem Trần Trọng Kim là người quay lưng lại với dân tộc. Gần đây nhất, cũng nói về Trần Trọng Kim trong “góc khuất” của lịch sử, Hà Vinh cho việc Trần Trọng Kim ra lập nội các là điều bất đắc dĩ, nên đã nằng nặc xin thôi, còn Đặng Minh Phương thì đồng ý với Nguyễn Khắc Viện cho rằng Trần Trọng Kim đơn giản chỉ là tay sai của người Nhật v.v.

Tôi nghĩ rằng vấn đề có thể suy nghĩ và cân nhắc thêm. Xin thử đưa ra vài điều để chúng ta dễ dàng bàn bạc (1)

Trần Trọng Kim là người ở làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải) huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Vùng đất này có thể nói là một vùng văn vật. Phía Đông là biển, phía Nam là Hồng Lĩnh, phía Tây là huyện Hưng Nguyên và thành phố Vinh, phía Bắc có đảo Song Ngư. Các nhà văn hoá lớn cả nước gần như đều tập trung cả ở đây. Đi từ Cửa Hội ngược vào huyện lỵ Nghi Xuân, đầu tiên ta gặp tiến sĩ Vũ Thời Mẫu ở làng Hội Thống, qua làng ông Kim, đến làng của Xích Thanh cuồng sĩ (ở Đan Hải) làng Tiên Điền của Nguyễn Du, làng Ung Viễn của Nguyễn Công Trứ, làng Tả Ao của Vũ Đức Huyền, làng Phan Xá của Phan Chính Nghị, làng Xuân Viên của họ Nguỵ (Nguỵ Khắc Tuần, Nguỵ Khắc Đản). Đi sâu vào nữa là đến những nhân vật huyền thoại: cố ghép ở làng Cọng Khánh, ông Hoàng Mười ở xã Tam Xuân. Phong cảnh hữu tình dày đặc ở đây với đảo Song Ngư, đảo Mắt (tên chữ là Nhạn Sơn Đài) rồi cả Ngàn Hống và sông Lam từng nêu tên trong sử sách.

Họ Trần của Trần Trọng Kim là một họ lớn. Hầu như cả xã Đan Phổ, phổ biến là họ Trần. Họ đã có công gây dựng, xây đắp nên làng xóm (lúc đầu gọi là Đan Phố, sau theo cách phát âm mới đọc là Phổ). Dân chúng có làng nghề là làng thợ mộc. Phương Ngôn Nghi Xuân có câu: “Lúa Xuân Viên, tiền Hội Thống, trống Đan Tràng, đục Chàng Đan Phổ”. Nhưng người dân lại có tinh thần chiến đấu cao. Cụ thân sinh ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông Kim, Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết, hoạt động năm 1930 (cho đến 1945, chị còn cùng tôi tổ chức Việt Minh xã với nhiều đồng chí như Trần Côn, Trần Mạnh Táo, sau đó chị mất vào năm 1964). Con gái cụ Kim, một bà bạn của tôi, hiện đang ở Pháp. Họ Trần này còn có ông Trần Sĩ Đức, học giỏi thi hạch đấu đầu nên gọi là đầu huyện Đức. Ông tham gia phong trào Đông Du, thiên về chế tạo súng rồi bị bắt, nhưng tiếng tăm ông khá trội ở Hà Tĩnh. Lớp em họ của ông Kim có những thầy giáo dạy giỏi như các thầy Trần Văn Kiêm, Trần Trọng Tính, công tác ở trường Minh Tân, trường Lễ Văn ở TP Vinh (khoảng từ 1939 về sau).

Chưa được rõ về mối liên hệ nào , ông được vào học trường Thông Ngôn (cùng lớp với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh), đỗ tốt nghiệp hạng ưu. Rồi được sang Pháp học ở tỉnh Lyon, đỗ năm 1911, về nước làm việc ở nha học chính Hà Nội. Từ đó ông làm thanh tra các trường tiểu học, và làm giám đốc các trường Nam Hà Nội, đến 1943 thì về hưu. Sự giao thiệp của ông với quan lại triều đình, cũng như các quan chức Pháp không được rõ lắm, chỉ biết ông có liên lạc thân tình với ông Thân Trọng Huề, thượng thư bộ Học triều Khải Định. Cuốn Việt Nam sử lược được xuất bản, ông có ghi lời đề tặng Thân Trọng Huề.

Cũng không biết trong phạm vi bí mật, ông đã có hành động chống Pháp như thế nào, và liên lạc với người Nhật ra sao. Chỉ biết rằng vào 1944, có tin ông sẽ bị Pháp bắt, người Nhật đã bí mật cho ông cùng với Dương Bá Trạc đi lánh nạn ở Chiêu Nam (Singapore). Năm 1945, ông được đưa về gặp Bảo Đại, nhận lời ra làm thủ tướng. Chính phủ ông lập ra, gồm nhiều người ưu tú, nhưng bị xem là chính phủ bù nhìn thân Nhật rồi phải từ chức và Bảo Đại cũng thoái vị. Ông chạy sang Trung Quốc, cùng nhóm Việt Chiến, Việt Cách, được cử làm chủ tịch Hội đồng quốc gia cho Bảo Đại từ 6 – 9 – 1953. Nhưng thực ra, ông chẳng làm được gì, chẳng lãnh đạo ai, lại trở về ở ẩn tại Đà Lạt. Ngày 2 – 12 – 1953, ông mất vì đứt mạch máu, thọ 71 tuổi.

Trần Trọng Kim trước nhất là một nhà giáo dục. Không rõ ông có trực tiếp lên lớp không, và trực tiếp phụ trách một lớp nào ở bậc sơ học hay tiểu học? Tôi không điều tra được những giờ dạy này (chắc là không thể thực hiện được), chỉ biết là đến năm 1933, nhà văn Thiếu Sơn viết cuốn Phê bình và cảo luận, nói rõ ông Trần Trọng Kim đã đi khám trường tiểu học ở Mon Cay, với tư cách là một thanh tra. Vào những năm thập kỷ 10 của thế kỷ 20, ông đã soạn các sách Sơ học luân lý (1941) và Sư phạm khoa yếu lược (1916). Những sách này đều do tác giả tự xuất bản, chứ không phải do cơ quan nhà nước in. Các báo chí hồi đó (như Đông Dương tạp chí) đã rất ca ngợi những tác phẩm ấy, cho rằng Trần Trọng Kim “thật là có công với học giới nước ta” (tờ báo nói trên số 91).

Tiếp đó nha Học chính Đông Dương đã cho xuất bản một loạt sách giáo khoa thư, các lớp Đồng ấm, dự bị và sơ đẳng, và ghi rõ là do các soạn giả Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận. Trần Trọng Kim là người đứng đầu nhóm soạn giả này. Điều khá rõ rệt là những cuốn giáo khoa thư này, đặc biệt là Quốc văn giáo khoa thư, Sử ký giáo khoa thư và Luân lý giáo khoa thưv.v. đều là những sách viết rất hay. Người ta đã có cảm tưởng phần lớn là do Trần Trọng Kim viết, vì so với những cuốn luân lý, sư phạm, sử ký v.v. thì giọng văn rất giống nhau. Thậm chí có nhiều dòng trong cuốn Sử ký giáo khoa thư (lớp sơ đẳng) đều giống nghĩa văn sách Việt Nam sử lược. Những học sinh tiểu học hồi đó (đầu thế kỷ 20) nay đã là lớp người cao tuổi còn vẫn thuộc lòng những bài trong các sách giáo khoa này. Một số câu, đề bài trong các sách ấy, đến nay đã trở thành nhưng câu khẩu ngữ rất sâu sắc, rất cảm động mà lại rất phổ thông: Ai bảo chăn trâu là khổ… Xuân đi học con người hớn hở…. Cách biên soạn giáo khoa cho các lớp tiểu học của nhóm soạn giả Trần Trọng Kim thật là đáng khâm phục. Sách giáo khoa tiểu học của chúng ta ngày nay, còn phải gia công nhiều, nhiều nữa mới vượt được họ.

Cùng với những cuốn Giáo khoa thư này, Trần Trọng Kim cũng chủ trương cả tờ Học báo. Báo này phát xuống các trường công, cung cấp những bài dạy ở tất cả các lớp tiểu học cho các thầy giáo, cũng có ích lợi thiết thực trong ngành.

Nhà giáo Trần Trọng Kim không chỉ quan tâm đến việc lên lớp, đào tạo. Phải nói rằng ông đã đóng góp cho giáo dục cả trong nhà trường và ngoài đời, ở cả tri thức và phong cách (sống và viết) “Vũ Ngọc Phan trong sách “Nhà văn hiện đại đã có ý kiến khác xác đáng” “Ông là một nhà giáo dục, nên những sách của ông toàn là sách học cả. Văn ông là một thứ văn rất hay, tuy rất giản dị mà không bao giờ xuống đến các mức tầm thường, lời lời sáng suốt, giọng lại thiết tha như người đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn của một nhà văn có nhiệt tâm, có lòng thành thực… Ông lại là một nhà văn dùng chữ rất xác đáng, và viết quốc ngữ rất đúng nữa” (sách đã dẫn trang 208).

Cũng thuộc phạm vi giáo dục, còn phải kể đến cuốn Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, soạn chung với Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm. Cũng như nhiều bộ môn khoa học trong thời kỳ quốc văn đổi mới, môn ngữ pháp đối với học giới ta lúc đó (đầu thế kỷ 20), còn khá ngỡ ngàng. Nhiều cố gắng của Trần Cảnh Hảo, Nguyễn Việt Chi, Nguyễn Trọng Thuật, Bùi Kỷ v.v. vẫn chưa ứng đáp được nhu cầu học tập và nghiên cứu. Cuốn Việt Nam văn phạm này đã tỏ ra có công phu hơn, được biên soạn một cách có phương pháp hơn, nhất là hạn chế được những ảnh hưởng về ngữ pháp của Pháp và Trung Quốc. Nhưng thực ra, sách cũng không được quan tâm nhiều lắm vào lúc này (đại chiến thứ hai đến hồi kết thúc chế độ thống trị của Pháp sắp cáo chung). Những năm về sau, ngôn ngữ học và ngữ pháp học Việt Nam có những bước tiến xa, người ta cũng ít nhắc đến cuốn Việt Nam văn phạm.

Cái vinh dự lớn trong làng học thuật mà Trần Trọng Kim giành được là nhờ ở những tác phẩm nghiên cứu tổng hợp và chuyên trách của ông trong đó rõ ràng ông đã thành nhà học giả (cả trước và sau năm 1945). Có thể chia ra mấy loại sách sau đây:

1. Nghiên cứu các học thuyết ở Việt Nam

Công phu lớn lao của Trần Trọng Kim là ông đã viết được bộ sách Nho giáo, xuất bản lần đầu năm 1930, rồi lần thứ hai (1932) có sửa chữa kỹ lưỡng. Sau đó được tái bản nhiều lần. Ông ghi về mục đích viết sách của mình một cách rất khiêm tốn, chỉ mong vẽ lại cái bản đồ của Nho giáo mà thôi. Sách này gồm 3 quyển.

- Quyển nhất nói về Khổng Tử (Thời đại – học thuyết – tác phẩm – Môn đề)

- Quyển hai nói về các học phái của Nho giáo, đặc biệt đi cụ thể vào Mạnh tử và tuân tử.

- Quyển ba nói về Nho giáo trong các thời đại sau ở Trung Quốc. Có phần cuối cùng nói về nho giáo ở Việt Nam.

Tôi đã có lần bàn về giá trị của cuốn sách này. Sách cũng có những vấn đề chưa đạt về mặt học thuật (như cách hiểu về lý thái cực, lý vô cực của Khổng Tử và của Tống Nho; như quan niệm về quân quyền của Khổng Tử v.v.) mà các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ như Phan Khôi, Ngô Tất Tố đã phê phán. Điều đáng trân trọng là khi nghe lời phê bình chính xác, Trần Trọng Kim đã nghiêm túc sửa chữa, bỏ đi những điều ngộ nhận của mình trong lần tái bản. Bạn đọc đã rất khâm phục Trần Trọng Kim về tư cách nhà học giả, là ở chỗ này.

Ngoài lĩnh vực nho giáo, Trần Trọng Kim còn giành thời gian soạn cuốn Phật lục (1940). Sách gồm 5 chương và một bản phụ lục. Soạn giả đã nói rõ về tiểu sử và hành trạng đức Thích Ca, nêu rõ về các vị Phật tổ, các vị Bồ Tát .v.v. Có chương thuật rõ về các tượng trong những ngôi chùa ở Việt Nam, từ tượng Tam thế đền Bát bộ kim cương. Phần phụ lục nói đến một ngôi chùa lớn của nước ta. Với các môn đồ phật tử cũng như quần chúng nói chung, quyển Phật Lục là một tài liệu phổ thông, biên soạn rất có phương pháp, có giá trị sử dụng tốt. Trần Trọng Kim chỉ dừng lại ở đó, chứ không đi sâu nghiên cứu và giới thiệu học thuyết như khi ông viết về Nho giáo (1).


2. Nghiên cứu các tác phẩm văn học Hán Việt

Về văn học, Trần Trọng Kim đã cùng Bùi Kỷ công bố truyện Thuý Kiều (phiên âm, chú giải). ở trường hợp này, có thể công phu của Bùi Kỷ là nhiều hơn - (bùi Kỷ là người đã dịch bản Bình Ngô đại cáo ra tiếng Việt một cách xuất sắc nhất, các bản dịch sau này đã cố ý sửa chữa, nhưng đều không đạt). Nhưng trên báo Nam Phong, hưởng ứng ý kiến của Phạm Quỳnh, thì Trần Trọng Kim đã phát biểu nhiều hơn cả. Rồi từ sau 1945, ông còn công bố, phiên âm bản Hạnh Thục Ca và dịch một ít thơ Đường (cũng đã được in thành sách). Những tác phẩm này cho thất sự thận trọng và uyên bác của ông, nhưng không có nhiều nét đặc sắc lắm.

3. Cuốn Việt Nam sử lược

Phải nhận rằng, bên cạnh những cuốn sách như Nho giáo, Truyện Thuý Kiều đã khẳng định vai trò học giả của Trần Trọng Kim, thì cuốn Việt Nam sử lược đã làm vinh dự cho ông hơn cả. Nên nhớ lúc đó, sách sử Việt Nam (viết bằng chữ quốc ngữ) là chưa có cuốn nào. ở các nhà trường từ bậc tiểu học trở lên, phải đọc bằng sách tiếng Pháp (dù người viết là người Việt, như các sách của giáo sư Dương Quảng Hàm). Từ những đống tư liệu bề bộn viết bằng Hán văn, mà sắp xếp lại cho thành một cuốn sử, có đầu đuôi, có thứ lớp như vậy, phải là người cao tay lắm mới viết được. Cách phân chia thời đại phải theo các triều vua là hợp với hoàn cảnh ta lúc bấy giờ (chứ không theo cách chia của sử bên âu châu được ). Tất nhiên, Trần Trọng Kim cũng phải theo cách đánh giá cũ để xếp các nhà Hồ, nhà Mạc v.v. là nguỵ triều, không đáng trách cứ. Nhưng ông đã có cách sắp xếp và biện giải về triều Tây Sơn, đề cao anh hùng Nguyễn Huệ thì quả là sáng suốt và công bằng. Cố nhiên, cuốn sách viết khi ta còn có chế độ vua quan, lại chịu ở dưới thống trị của người Pháp, thì cũng phải lựa bút, lựa lời, không có gì đáng trách. Sự phê bình nghiêm khắc của Trần Huy Liệu (như đã nói trên kia) là không thoả đáng. Vả lại làm sao mà vào lúc ấy lại có thể sử dụng quan điểm Mác Lênin như bây giờ ta đang đòi hỏi.


4. Tác phẩm khác

Ta cũng không quên rằng ở chặng đời cuối của mình, Trần Trọng Kim còn viết thêm một cuốn hồi ký: Một cơn gió bụi. Cuốn sách này chủ yếu kể lại thời kỳ ông cùng với Dương Bá Trạc trốn tránh sang Nhật, rồi về nước, lập chính phủ dưới triều Bảo Đại, do Nhật sắp đặt. Hồi bấy giờ, ta đã gọi chính phủ này là chính phủ bù nhìn thân Nhật, nên tất nhiên bị phản đối (là để nói trên).

Thật ra thì tập hồi ký này của ông cả về nội dung và nghệ thuật đều chưa đạt. Nhiều chỗ ông đi phải né trách không dám trình bày đúng sự thực. Có lẽ ông đã viết trong một tâm trạng ngao ngán mà không thức thời, một số chi tiết cũng không hoàn toàn trung thực, dưới này ta sẽ nói đến.


Nói sang chuyện hoạt động chính trị. Hình như đây là vấn đề được nhiều người quan tâm hơn và sự nhận định nói chung là khe khắt hơn. Song những điều đắc thất của Trần Trọng Kim ở chặng cuối đời này nên được làm rõ, có thể thấy được.

1. Việc ra làm thủ tướng.

Thật ra lúc đó nước ta bắt buộc phải có chính phủ. Nhật không thể trắng trợn nắm quyền, cũng như Pháp suốt 80 năm vẫn phải duy trì bộ máy Nam triều. Phải có một chính phủ không là tay sai thì cũng phải phục tùng quân đội Nhật. Không phải Trần Trong Kim thì phải có con người khác. Nhưng lại phải là người của Nhật đưa ra. Ta đã biết những Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đình Diệm đều được Nhật (và Bảo Đại) nhắc đến, nhưng cuối cùng họ chỉ cùng họ chỉ dùng Trần Trọng Kim. Nếu ông từ chối thì cũng không khó gì, song ông đã phải làm theo ý Nhật (tôi nhấn mạnh: phải làm theo). Ông đã chọn lầm đường để chịu búa rìu của dư luận. Một điều sai lầm và cũng là tội nghiệp cho ông.

2. Việc liên hệ với Nhật Bản.

Phải nói rằng, cho đến nay ta chưa phát hiện được tài liệu gì về vấn đề này. Do ông và cả Nhật cố tình giữ kín nên không ai biết, trừ bọn Pháp đã có nghi ngờ. Ta không rõ ông bí mật liên hệ với Nhật thế nào, cả Dương Bá Trạc cũng vậy. Chỉ thấy ông được Nhật đưa đi trốn rồi đưa về để đẩy ra làm thủ tướng. Cũng không được biết ông có liên hệ gì với Cường Để hay không. ý đồ của ông có thể không rõ ràng, song điều hiển nhiên là ông đã là một con bài do Nhật chuẩn bị.

Và đúng đây là điều càng thấy khó hiểu. Từ trước, không nghe ông có liên hệ gì với các tổ chức cách mạng (tất cả các đảng phái). Ông cũng không thân cận gì với người Pháp (kể cả nhân vật Cút Xô mà Bảo Đại nhắc đến). Trên văn đàn, cũng không thấy ông giao thiệp hay nhắc gì đến nhóm Tự lực Văn đoàn. Xin để chờ những phát hiện mới hơn.

3. Vai trò của chính phủ Trần Trọng Kim


Dư luận vẫn gọi đây là chính phủ bù nhìn. Theo chúng tôi, ta nên hiểu cái danh hiệu này cho có mức độ.

a, Nói bù nhìn:

Nội các Trần Trọng Kim

1. Trần Trọng Kim, Giáo sư, Học giả, nhà Sử học: Thủ tướng.
2. Trần Văn Chương, Luật sư: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.
3. Trần Đình Nam, Y sĩ: Bộ trưởng Nội vụ.
4. Trịnh Đình Thảo, Luật sư: Bộ trưởng Tư pháp.
5. Hoàng Xuân Hãn, Thạc sĩ Toán: Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ.
6. Vũ Văn Hiền, Luật sư: Bộ trưởng Tài chính.
7. Phan Anh, Luật sư: Bộ trưởng Thanh niên.
8. Lưu Văn Lang, Kỹ sư: Bộ trưởng Công chính.
9. Vũ Ngọc Anh, Bác sĩ: Bộ trưởng Y tế.
10. Hồ Tá Khanh, Bác sĩ: Bộ trưởng Kinh tế.
11. Nguyễn Hữu Thi, cựu Y sĩ: Bộ trưởng Tiếp tế.

Chính phủ Trần Trọng Kim còn bổ nhiệm 5 vị sau đây đảm nhận trọng trách ở các địa phương xung yếu:

- Phan Kế Toại: Khâm sai Bắc bộ.
- Nguyễn Văn Sâm: Khâm sai Nam bộ.
- Trần Văn Lai: Đốc lý Hà Nội.
- Đặng Văn Hướng: Tổng đốc Nghệ An.
- Kha Vạn Kân: Đô trưởng Sài Gòn.

Trong số 16 người trên, phần nhiều về sau đã trở thành cán bộ cao cấp của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

(Xem thêm: Chính phủ Việt Nam những ngày đầu độc lập)
Là nói theo cách vạch trần chân tướng để hạ uy thế. Ta quen gọi như thế rồi thành ra khái niệm xấu, sâu sắc và nặng nề. Sau này có người chữa lại để gọi là chính phủ chuyển tiếp cũng là một cách hồi hộ. Gọi là bù nhìn có phần không thoả đáng với nhiều thành viên chính phủ đều là người tốt, người có uy tín. Không rõ có ai kín đáo thi hành lệnh của Nhật không, chứ là tay sai thực thụ thì không rõ mặt (kể cả Trần Văn Chương sau này phục vụ chính quyền Ngô Đình Diệm).

b, Việc làm và luận điệu.

Tất nhiên, khi ra đời cũng như khi tuyên bố nọ kia, chính phủ Trần Trọng Kim phải có những câu như: cảm tạ công ơn Nhật, xin cố gắng ủng hộ và tán thành Nhật trong vấn đề Đại Đông Á.v..v.. Tôi nghĩ đó chỉ là cách nói khách sáo, nói mà vẫn biết là nói lấy lệ, nói nịnh để cho qua quýt mà thôi. Cũng có thể ban hành một vài điều nghiêm cấm, mà vẫn biết rằng sẽ chẳng có tác dụng gì, ban bố ra cho phải phép. Trước đây, khi tây còn cai trị, nhất là nó nắm quyền sinh sát trong tay, thì cũng có vô số lời nịnh Tây, bết ơn chính phủ bảo hộ..v..v… Tôi cho rằng không nên căn cứ vào những điều đó để đánh giá. Còn việc tha các trù phạm, nghe nói là những tù cộng sản không được tha. Tôi không được đọc văn bản, nhưng lúc đó (tháng 5,6 – 1945) tôi ở Vinh thì đây là chuyện có thực. Khi ông bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Hảo ra lệnh này, nhiều đồng chí bị bắt giam đã được giải phóng. Các ông Nguyễn Duy Trinh, Lê Tính từ trong Nam về Vinh, có đến trọ ở nhà tôi. Nhiều đồng chí khác được “sổ lồng” vào dịp này.

Tôi còn nhớ là vào lúc đó, chính phủ Trần Trọng Kim có ra lệnh hoãn nợ để đỡ phần cho nông dân nghèo tại các xã (không biết việc thực thi có chu đáo không). Ngoài ra có một chương trình giáo dục mới (chương trình Hoàng Xuân Hãn). Có phong trào ngay lúc đó được gọi là Thanh niên Phan Anh, thực tế nhiều nơi đã thành tổ chức do Việt Minh lãnh đạo. Nếu là một chính phủ thân Nhật khác, dễ gì đã có được những hành động tạo điều kiện thuận lợi như vậy.

4. Về cá nhân Trần Trọng Kim

Tôi cho rằng về cá nhân Trần Trọng Kim, có những điều khá rõ rệt, nhưng ta đã không nhất trí với nhau, ở cả những điều đơn giản:

a, Phải công nhận rằng ông là người có lòng yêu nước, rất trân trọng lịch sử và văn hoá nước nhà. Ông vẫn giữ được tư cách người trí thức của dân tộc. Những hạn chế của ông về mặt học thuật là ở mặt khác, không liên quan gì với lòng yêu nước. Ông muốn tìm hiểu và tôn vinh Việt Nam về toàn diện các lĩnh vực văn hoá. Ưu điểm của ông là ở đó.

b, Ông bị lôi cuốn vào hoạt động chính trị, mặc dầu sự hiểu biết chính trị của ông không sâu sắc, không thức thời. Ông bị người ta dùng làm con bài, mà vẫn tưởng là họ cho ông ra đóng góp với dân tộc.

c. Tư tưởng của ông là tư tưởng luân lý phong kiến. Đọc sách Nho giáo của ông ta thấy rõ điều này. Cho đến khi gặp bế tắc, ông vẫn cứ phải loai hoai với lý thuyết của Khổng Tử (qua câu cuối cùng của ông nói với Phạm Khắc Hoè về việc hành tàng), do đó mà bế tắc lại càng bế tắc.

Còn có một điều khiến chúng ta phải phàn nàn, mà khó lòng thông cảm với ông. Đó là vào khoảng cuối đời, ông đã tiếp tục gieo mình vào những biến cố không cần thiết, hoàn toàn bất lợi. Ông không chịu “tàng” như cách nói với Phạm Khắc Hoè mà lại cố “hành” khi đã thành vô dụng. Không rõ ông hiểu Bảo Đại thế nào mà còn đi sang Trung Quốc gặp lại Bảo Đại rồi quay lại Sài Gòn, được mời đóng vai trò chủ đạo cho cuộc vận động của Chính phủ do Bảo Đại làm quốc trưởng, mặc dầu ông không hoạt động được gì cũng không chỉ đạo ai. Ông vẫn bị lợi dụng mà không hay. Tôi nghĩ rằng khi ông được đẩy ra làm thủ tướng, rồi lại làm chủ tịch gì gì đó, thì ông hoàn toàn là một nạn nhân chứ không có vai trò chủ động gì nữa.

1. Xin nói thêm: về Trần Trọng Kim, tôi cũng đã nhiều lần đưa ra vài ý kiến:

- Trên sách Sao khuê Ngàn Hống (Trung tâm UNESCO xuất bản H 2000 trang 49)

- Trên sách: Người có vấn đề trong sử nước ta: NXB Văn hoá thông tin
H 2008 trang 286

Trong các sách ấy, tôi đã nói rõ "Trần Trọng Kim vốn là một học giả lại chạy lên vũ đài chính trị là ông đã chọn lầm đường?"

Độc Lập và Tự Do


Độc Lập và Tự Do
Người này cùng chào hỏi người kia: Này Anh tên là gì, mà đi đâu thế ?


Nguyễn Tất Thịnh
05:18' PM - Chủ nhật, 23/08/2015
Độc Lập và Tự Do – hai khái niệm thiêng liêng, cao quý của toàn Nhân Loại, dần đang được hiện thực thuộc về đời sống của mỗi Con Người trưởng thành, trong xã hội văn minh tiến bộ. Tôi viết đối thoại dưới đây như tri ân về Độc Lập và Tự Do, không phải là khái niệm nữa với tư cách thực thể sống, như bậc sinh thành ra chính mình vậy!

Tự Do: Tôi đi đâu mà tôi thích, tôi sống hoàn toàn với bản thân tư tưởng của tôi và vi vu trong Thế giới. Không bị giam hãm bởi các quyết định gì sẵn có, bởi này nọ của ai. Thế còn Anh ?
Độc Lập: Dường như ở tôi có một chút khác là: tôi phải sống bằng chính tôi, định vị mình ở đâu trong Thế giới. Cố gắng tự quyết định mọi điều, kiên định thực hiện dù có ai này nọ.
Tự Do: Tôi vốn không phải nuôi ai, chỉ thuận sống với Thiên nhiên, bay bổng thể hiện bản thân mình, nhưng cũng rất khao khát tìm những người đồng đạo. Tuy cũng vô cùng chật vật để mong được như thế. Thi thoảng song hành được cùng với một hay vài người có vẻ giống mình, nhưng chỉ được một đoạn đường ngắn ngủi.
Độc Lập: Tôi không có bản chất kí sinh, nhưng vốn mang trách nhiệm với bản thân và những người thân thiết của mình. Luôn phải thực hiện khá nhiều nghĩa vụ đó, dù không muốn phiền lụy vào ai, và sức khỏe chỉ vừa phải, và chẳng toàn năng gì cho cam. Nên vẫn bị ràng buộc quan hệ với nhiều người khác, tuy cũng ngắn ngủi nhưng dường như luôn phải thế.
Tự Do: Tôi đã gặp một anh chàng…lúc đầu cả hai thích nhau lắm. Nhưng anh ta bộc lộ tất cả những gì anh ta muốn, thích…nhiều điều phải nói là rất chi khó chịu, nhưng chẳng bận tâm gì đến sở thích, nhu cầu, đặc tính của tôi cả. Tôi có lên tiếng nhắc vài lần thì anh ta phản ứng gay gắt, thế là đành chia tay. Chuyện là thế, nhưng sau tôi tự thấy hoang mang. Tôi muốn giao hòa, nhưng cô đơn…
Độc Lập: Ôi, chuyện thế tôi vẫn thường trải qua. Nói chung phải cố gắng lắm Anh ạ, để những người như thế không bất chấp và lấn át được mình, thậm chí tranh thủ được ủng hộ và trợ giúp của họ. Tôi ngại cưu mang, lại không chịu nổi ai ban phát, ràng buộc, dắt dây mình. Nên thường tìm cách ‘đánh đổi’ những lợi ích sòng phẳng với những người cần cho từng đoạn hành trình của mình.
Tự Do: Thế giới rộng lớn, nhưng dường như cuộc sống nhân sinh trong đó không có chỗ thực cho tôi thì phải, nên bấy lâu liên tục phải đi tìm ý niệm ‘tôi là Vua của những gì mình nghĩ’… như thúc giục bẩm sinh từ trong sâu thẳm tế bào, cũng như luôn bừng lên ở đỉnh thăng hoa của tinh thần…cũng khá mỏi mệt. Nhưng đã đến lúc tôi hiểu điều tôi tìm kiếm không phải là cứ đi mãi như thế.
Độc Lập: Còn tôi thì phải tìm những điều thực cho mình trong cuộc sống nhân sinh, nếu không làm Thế giới rộng lớn tính đến tôi thì cũng chả còn chỗ giành cho tôi nữa. Tôi tìm năng lực tự khẳng định ‘tôi là chủ của những gì mình làm’, khiến người khác tôn trọng. Khi không tạo được sự xứng đáng thì chả còn ai muốn nghe tôi nữa, làm nô lệ thì không nhận được tình thương mà con Trâu còn có được.
Tự Do: Dù sao tôi luôn thương hại những kẻ bị tù túng trong những tư tưởng, khuôn phép, giáo điều của họ, thậm chí của những kẻ khác gán cho… phải ‘hót’ thứ giọng quái lại, phải tâng bốc những điều không thích, phải đi theo những cách thức hắc ám, phải phục dịch những kẻ không ra gì, phải sống một cuộc đời tôi đòi… Tôi không hề ích kỷ đâu mà luôn tìm cánh thổi vào những người khác những tư tưởng ‘được thực hiện, được theo đuổi’ những gì thuộc về chính họ. Và cũng cho họ nhận thức rằng đừng xâm phạm đến quyền tương tự như vậy của mọi người khác. Vì thế tôi không hề chỉ là khát vọng, hơn thế là lý tưởng về hiện thực nhu cầu mạnh mẽ, tất yếu của Nhân loại.
Độc Lập: Có lẽ hơn ai hết, tôi hiểu những nỗi niềm đó của Anh về những kẻ nhược tiểu, yếm thế mà phải thế. Vì tôi đây vốn đã trải qua. Kẻ mạnh luôn muốn mình được hơn và bắt kẻ yếu phải phục dịch, phụ thuộc. Nên tôi cũng phải tạo ra những ‘kỉ cương mới’ với nguyên lý: kẻ mạnh phải thắng, nhưng kẻ yếu được có cơ hội phát triển. Mỗi người phải là một chủ thể sống chủ động của chính họ, càng sớm càng tốt.. Hơn thế tôi phải tìm được vị thế mạnh để xóa bỏ được ‘bao cấp / độc tôn/ độc tài/ độc trị’ thay vào đó là ‘Nhân trị’ nghĩa là từng người phải có năng lực tự quản trị những gì thuộc về họ và tham gia vào quản trị chung với ý thức cao nhất của Con người văn minh tiến bộ.
Tự Do: Nói như triết học, thì Anh như phần ‘thể năng’, tôi như phần ‘thần năng’ của cùng một Con người nhỉ ? Hóa ra bây lâu tôi tưởng tôi là ‘Nhất’ cứ vi vu trên chín tầng mây, lại nhìn thấy hết thế thái nhân tình mà tự phân phân hóa khiến trĩu nặng, lại thêm vì nhân sinh làm lệch lạc mà bị rơi xuống đầm lầy..ở đó hoang vu, chả ai biết đến, thiết tha gì mình…vùng vẫy theo ý mình mà lún dần xuống…Nếu là Anh, nhưng trong đầm lầy như thế thì cũng đáng thương như thế mà thôi.
Độc Lập: Không biết có hẳn thế chăng ? Nhưng tôi cảm được hết những suy nghĩ của Anh. Sự ‘phân hóa’ Anh nói cũng có trong tôi. Dù tôi có nhiều sự ảnh hưởng, có thể đưa ra quyết định chính yếu, nhưng bao nhiêu ràng buộc còn tồn tại, nên rất nhiều điều, dù tôi vùng vẫy cũng không thể thực hiện, không cố theo đuổi cho được! Ôi, nếu một trong hai chúng ta sa cơ vào ‘đầm lầy’ như Anh vừa nói thì hẳn không còn làm ‘chủ của mình’ nói gì đến làm ‘Vua của mình’ ?!
Tự Do: Tôi và Anh tuy hai là một ? Có thể tương tác làm nhau trưởng thành, là ‘Đấng gì đó’ được không Anh ? Tôi có mang năng lực của Anh tôi thêm vĩ đại, Anh sở hữu được tôi Anh thêm tuyệt vời, vai trò khác nhau nhưng bình đẳng phải không ? Tôi độc hành bên cạnh không có ai, thật cô đơn đến thăm thẳm Anh ạ.


Độc Lập: Phải chăng nếu có tôi thì Anh tự tin hơn rất nhiều, nếu có Anh tôi có thể sinh ra Thần Thánh ?! Sẽ nhiều khi chúng ta ai đó trong chúng ta phải tiên phong, nên người này nhún nhường, thông cảm, vì người kia. Bình đẳng sẽ là cùng được tôn trọng về sự chính đáng và hợp lý. Khi một mình tôi cũng là người yếu đuối Anh à…

Tự Do: Bấy lâu tôi luôn nghĩ mình mới có tầm cao giáo huấn, truyền bá tiếng kêu gọi thiêng liêng. Nhưng đối thoại giữa chúng ta, tôi đã ngộ hơn: Anh là người có tư cách thuyết phục, tạo nên những cánh đồng sinh thái. Tôi cảm nhận Anh là Nữ….muốn hành sinh cùng ? Được chăng ?
Độc Lập: Kiếp trước đây, tôi là Vương Nữ Quốc, biệt lập, thanh bình đến gần tuyệt đối. Tên tôi là Độc Lập cũng vì thế! Có một Chân Sư đi qua, tôi đã ngỏ ý muốn nhường lại hết ngôi vị để lấy anh í làm chồng…sống yên ả như muôn gia đình dân thế bình thường… Nhưng anh í bảo rằng, thật ra anh í không được tự í đâu mà còn vì bổn phận ‘thỉnh Đạo’ gì í cho Vua gì í. .nên đi mãi rồi.
Tự Do: Ôi thật cảm động, kiếp trước vị Chân Sư đó chính là tôi đây, vì đã làm tròn bổn mệnh ‘thỉnh Đạo’ cho Hoàng Đế nên mới được tôn vinh, cũng thoát khỏi chiếc ‘mũ kim cô’ nhiều tua rua…của người đời, thỏa chí tư tưởng gần như tuyệt đỉnh. Tên tôi là Tự Do cũng vì thế. Lúc đó tôi đi mà lòng nhớ thương Chị lắm. Tôi đã hiện hữu trước Chị đây! Ta cùng quay trở về…với nhau, trong nhau, một Con người, trong Thế giới…khi cả hai đều tự trải nghiệm, đắc ngộ: hai là một, một mà hai!
Độc Lập: Ôi Anh ơi… vò võ mong ngóng Anh… Từ nay em phó thác theo Anh đấy!
Tự Do: Ôi Em ơi…thăm thẳm thương nhớ Em… Từ nay anh bảo vệ cho Em nghe!

Thế là Hai Người Họ sinh ra con cái cháu chắt sau này…. và hàng tỉ người được nghe những bài quốc ca, những lời hiến pháp tôn vinh Độc Lập và Tự Do…

Monday, August 24, 2015

Thượng úy công an bắn 3 phát súng, đồng nghiệp tử vong

Tại trại tạm giam Nghĩa An, trong quá trình làm việc, thượng úy Lê Văn Hùng đã dùng súng K54 bắn vào đồng nghiệp thiếu tá Trần Đức Hùng , khiến người này tử vong tại chỗ.

hình minh họa.
hình minh họa.
Vụ việc xảy ra khoảng 17h chiều nay (23/8) tại hiện trường lao động thuộc K2, trại tạm giam Nghĩa An, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Được biết, vào thời điểm trên, trong quá trình làm việc tại đây, thượng úy Lê Văn Hùng (SN 1983) đã dùng súng K54 bắn 3 phát liên tục, trong đó 2 phát đầu bắn trượt, phát thứ 3 bắn trúng vào đầu của thiếu tá Trần Đức Hùng (Phó trưởng K2), khiến thiếu tá Hùng tử vong tại chỗ.
Phát hiện sự việc, cơ quan chức năng lập tức bắt giữ thượng úy Lê Văn hùng, đồng thời khoanh vùng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Hiện, vụ việc đang trong quá trình điều tra làm rõ.
Nguồn: vnexpress.net

Sunday, August 23, 2015

Nội Quy Chung diễn đàn paltalk HoiLuan ThoiSu HomNay Va VanNghe


Thân chào quý anh ch OP & Chatters ca Din Đàn Paltalk 
 http://www.paltalk.com/g2/group/1370311111/
 Xin quý anh ch tham kho các điu ni quy phác tho dưới . Nếu có ý kiến điu chnh hoc b sung xin vui lòng viét bng màu mc đ . Cám ơn .
Quan Đim : Hướng đến Bình đng , tôn trng nhng ý kiến trái chiu, đa chiu , khuyến khích các hành vi thin chí xây dng dân ch và mt nét đp truyn thng văn hoá Vit t hào .
Hi : T hi  nhiu người li , nhóm người
Lun : xem xét các đ các mri dùng lý l phê phán , bàn , nhn đnh
Room Hi Lun: Phòng t hi nhiu người xem xét các mt đ các phương din trong cùng mt  đ  tài (Văn Hóa, Xã Hi,Thi S, Chính Tr, , Dân Ch ) ri dùng lý l phê phán , bàn , nhn đnh .
Ch trương :
·   


a)  Hi lun chính tr ưu tiên, quan tâm chuyn thi s ca đt nước .
b) Tôn trng S Tht . Mi người đu có th chia s mi đ tài  tính cách Xã Hi chung . (Không đ tài nào xem là nhy cm ). Trọng tinh thn T Do Ngôn Lun .
c)  Chú trng chuyn sau 1975 , ưu tiên vic hiên thi và tương lai, gim chuyn quá  kh .
d) (Trung lp) không bè phái ,  (không làm  chính tr )  , mà ch là  phòng dùng đ trao đi chia s các đ tài khác nhau.
e)Không phân biệt Nam Trung Bắc , Người ở Âu, Á , Mỹ , Phi, Úc Châu . Không cho phép phân biệt Nick Đen, Xanh , Tím ...  
f) Không kêu gọi, thúc dục người Chống Cộng . Mọi người tự ý thức và trách nhiệm hành vi của mình .
g)  Phòng dùng đ chia s , tiếp đón nhng chính kiến khác bit điu giá tr , điu cao kiến , mi m chú ý đến ch đ,trong ( liên quan )  dân ch cho Vit Nam hướng đến (đến Dân Mnh Nước giàu ) ,  Dân Giàu Nước Mnh
h)    Phòng cho phép tố cáo các room, Nhân Vật bất lương, lừa gạt tiền bạc thiên hạ. (Cho mở Audio hổ trợ chứng cứ trong một số trường hợp )
i)  Không quyên tin , góp tin .
j) Chống mọi bất công , độc tài
k)    Xây dng : Yêu nước , Thương người , L Nghĩa, Đo Đc , dân ch tôn trng ni quy Room.
l)    Không chp nhp : Nhng ai vào Room  xin tin , nhng nick thô tc , mang ý nghĩa xu . nhng k vô luân , đ tài tn hi luân lý , các vn đ cá nhân chuyn mê tín
m) Không nên : M kinh ( v tín ngưỡng ) , m nhc nước ngoài , hoc văn ngh quá trn .
NI QUY ROOM
I. Quy Đnh trách nhim Ca Chaters:
BT ĐNG , BÂT HOÀ MIN TÔN TRNG  NI QUY
1. Mi Chatters có quyn phát biu đa chiu nhng đ tài thuc Tư Tưởng, Văn Hóa, Chính Tr, Xã Hi, Tôn Giáo không đ k , nhy cm . Khuyến khích s thng thng và s tht .
2. Không chp nhn nhng chaters dùng ngôn ng thô bo hay gian di đ tn công người khác!
- Vic phê bình mang tính cht cá nhân thì phi có lý do chính đáng!
- Không chp nhn nhng hành vi như: nói tc, chi by, xàm.
- lch s ti thiu (không văng tc chi th mit th cá nhân (gia đinh/cha me/ v con)
3. Đ to điu kin tt cho Chaters trao đi và tranh lun tt, Ban Điu Hành quy đnh mc thi gian cm Mic t 7- 10 phút. Khi không có Chater giơ tay, thi gian cm Mic tùy thuc quyn ca OP đang điu hành sinh hot.
4. Quan nim mi người cùng là người Vit Nam . Mi t him ca quá kh lch s , cá nhân xin tm gác (Tránh nhắc đến VNCH đến khiêu khích châm chọc làm lạc ý nghĩ hội luận vấn đề hiện tại) . Nên chú trng vào bài toán gii dân ch.
II. Quyn Hn ca OP trong Điu Hành sinh hot, Ban Điu Hành quy đnh như sau: ( t chế quyn lc Mute, Bounce, Ban... )
Trước khi Mute (OP nen canh? bao' chatters (warning))
·         Ln đu chatters vi phm -Mute nhc nh
·         Ln II  chatters vi phm-  Mute thi lượng 10 phút
·         Ln III  chatters vi phm - b Bounce, OP nên cnh báo li người vi phm trên màn hình (nếu gp rút thì sau khi mute hay bounce s thông báo).
    Còn các thành phn chatters vn thường xuyên quy phá ... OP x lý ( Mute/Bounce)  ngay không cn cnh báo .
 ·         OP khác có quyn Unmute khi người (OP)  Mute vng .
·         Nếu OP nào đó t đng UnBounce vì  tình cm cá nhân , Người  b Bounce đó s b BAN  1 tun , OP đó s  b  Owner  giam 1 tun tuỳ mc đ x lý ...
2. Nhng Chater c tình phá hoi sinh hot ca room s b Ban.
a- Mc đ Ban: Super OP BAN 3 ngày.
b- Trường hp Cá bit :
·  Ch Room   ( Owner)s BAN 1 tun l.
·       Nghiêm trng,Ch Room( Owner) s Ban vĩnh vin
3. Super OP nào Bounce ,Ban, thì người đó có toàn quyn Un! Các OP khác không được t ý Un! Nếu ai mun Un thì phi hi OP đã Bounce ( Nếu mun Un ai nên PM đ li nhn ).
4. Trong trường hp các OP không th thng nht ý kiến vi nhau v Ban hay unBan cho mt chater nào đó, có th tham kho ý kiến ca Ch room đ cùng nhau gii quyết.
5. Hết hn Bounce , Các ngưi OP Bounce/Ban không có mt OP khác được quyn can thip Un .
6. Khi Ops là người tranh lun vi CHATTERS , nên tránh mang OP đ gi tính cách vô tư và bình đng vi người tham gia . Tránh s dng quyn lc khi tranh lun .
7. Khi OP say sn , tránh ( không được ) mang OP .
III. Nhng Quy Đnh V Trách Nhim Ca OP:
BT ĐNG NHƯNG KHÔNG BT HOÀ
( Th hin đo đc ,tôn trng , tính công bng và bình đng  )
·         Bo v Ni Quy , Bo v Room .Tinh thn truyn thng sinh hot ca Room
·         Có tinh thn trách nhim và quan tâm vì li ích sinh hot  chung ca Room . Luôn mang OP khi có mt Online .
                 OP thể hiện tinh thần vô tư không đem các sự thù ghét từ quá khứ ,các diễn đàn khác để Mute/Bounce/Ban . Khi Chatters chưa vi phạm nội quy của Diễn Đàn .
·         Ops thưng tìm các đ tài đ hướng dn chatters vào ch trương chung .
·         OP tiến c nhiu nhân tài có năng lc làm OP cho Room .
·         OP th  hin khách quan , tránh cm tính tình cm cá nhân khi hành x.
·         OP tránh phe nhóm vì li ích cá nhân .
·         OP không đóng room khi room đang sinh hot .
·         Trong gi sinh hot, các OP cn hp tác vi nhau đ gi trt t.
·         Khi ny sinh mâu thun, các OP không nên cãi ln hay mit th nhau trong room (bng mic hay textchat) . Nếu cn nên  m cuc hp các OP đ hoà gii .
·         Các OP ca Din Đàn Hi Lun không ược )  đeo OP cho room khác cùng mc đích song song cùng 1 thi gian ! 
        ·         Khi OP nào có mt xin st sn mang OP đ giúp Din Đàn hin lên trong list Paltalk, Đng đ Room trng  không có OP.
·         Trong vòng 3 tháng nếu không sinh hot , OP cn  thông báo  Owner đ tránh s thu hi OP .
·          Nhng OP nào vi phm nhng quy đnh trên, Ban Điu Hành s hp bàn và xét k lut.
a-      Góp ý
b-      Thu hi OP
  IV  Trách nhim và Quyn hn ca Ch Room (Owner)
   
   - Chu trách nhim chung 
   -Hoà gii các xung đt gia các OP 
   -Nhc nh các OP thường xuyên có mt điu hành Din Đàn .
   - Tuyn thêm hoc tháo OP ,  theo yêu Cu ca các OPs thành viên và chatters .
  - Luôn Tuân Th theo ch trương ca Din Đàn
To điu kin cho Chatters  1 tháng 1 ln đánh giá và  góp ý, tán dương tính dân ch và trách nhim cho OP đã  đóng góp &  sinh hot Room.
Ngày 1.1.2012

 
Powered by Blogger