Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam từ ngày đảng hình thành cho tới nay đã ảnh hưởng tới đất nước và dân tộc ta ra sao.
Trước hết nói về nhân vật
Hồ Chí Minh
Sinh ngày 19-5-1890, mất 2-9-1969, là người sáng lập đảng CS Việt Nam
và đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Hà Nội. Hồi nhỏ tên là
Nguyễn Sinh Cung, tự Tất Thành, đỗ bằng tiểu học năm 1909, năm thứ hai
trung học bị đuổi, năm 1910 đến Phan Thiết dậy chữ Hán và chữ quốc ngữ,
năm 1911 vào Sài Gòn học trường Bá nghệ ba tháng, trường này đào tạo
nhân công hàng hải.
Ngày 5-6-1911 Thành sang Pháp, xin làm bồi trên tầu buôn
Latouche-Tréville, tháng 7-1921 tới Pháp. Nguyễn Tất Thành xin học
trường Thuộc địa nhưng bị từ chối. Từ năm 1912-1913, Thành sang Mỹ sau
đó sang Anh làm nghề cào tuyết, phụ bếp, học tiếng Anh tại đây cho tới
năm 1916, cuối năm 1917 về lại Pháp và ở đó cho tới 1923. Năm 1919 Thành
gia nhập đảng Xã hội Pháp, lấy tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920 đọc luận
cương của Lénine, tin tưởng chủ nghĩa Cộng Sản rồi làm báo Le Paria,
Người Cùng Khổ tố cáo chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.
Năm 1922 Nguyễn Ái Quốc đến Nga tham dự Đại hội quốc tế Cộng Sản,
tháng 6-1923 ông theo học CS tại Nga, năm 1924 được bầu vào Ban chấp
hành đoàn quốc tế nông dân và được cử làm Ủy viên ban phương đông. Năm
1924-1927 Nguyễn Ái Quốc sang Tầu lấy tên Lý Thụy, có nhiệm vụ tuyên
truyền tư tưởng cách mạng ra vùng Đông phương. Năm 1925 ông tập hợp
người Việt kiều tại Trung Hoa thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng
đồng chí hội. Chính phủ Tưởng Giới Thạch khủng bố các đảng viên CS Tầu,
VN nên Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Hương Cảng rồi thoát sang Nga,
tháng 11-1927 được cử đi Pháp.
Năm 1928-1929 Nguyễn Ái Quốc ở Thái Lan, năm 1928 ông cải trang thành
nhà sư để tuyên truyền cho các Việt kiều tại đây, cuối năm 1929 ông lại
sang Tầu. Ngày 3-2-1930 tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, theo chỉ thị của
Quốc tế CS, ông thống nhất ba tổ chức CS thành đảng CS Việt Nam, sau
đổi thành Đảng CS Đông Dương rồi đổi thành Đảng Lao Động VN. Tháng
3-1930 ông sang Thái rồi lại sang Tầu. Năm 1931 lấy tên Tầu Tống Sơ Văn
(Sung Man Cho), bị chính quyền Hương Cảng bắt giam, họ tính giao lại cho
Pháp nhưng nhờ luật sư Frank Loseby bào chữa được thả ra ngày
28-12-1932, ông đi Thượng Hải rồi trở lại Nga.
Nguyễn Ái Quốc đến Nga lần thứ hai mùa xuân năm 1934 với bí danh Lin,
theo học trường Quốc tế Lénine (1934-1935), tham dự Đại hội VII Đệ tam
quốc tế với vai trò quan sát viên. Năm 1938 ông bị Nga giam lỏng, bị
nghi ngờ vì được Hương Cảng trả tự do nhưng không có bằng cứ nên lại
được thả ra. Trong giai đoạn này Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần
lượt làm Tổng bí thư Đảng CS Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc giữ nhiệm vụ
liên lạc viên giữa Quốc tế CS và đảng CS Đông Nam Á.
Năm 1938, ông trở lại Tầu vai Thiếu tá Hồ Quang thuộc Bát Lộ Quân (Lộ
quân thứ 8) cho tới năm1939. Đầu tháng 1-1941 Ủy viên Trung ương đảng
sang Tầu mời ông về nước lãnh đạo cách mạng, về VN ngày 28-1-1941 qua
lối Cao Bằng, lấy bí danh Già Thu tới ở hang Bắc Bó Cao Bằng. Ngày
13-8-1942 ông lấy tên Hồ Chí Minh sang Tầu vận động Trung Hoa Dân quốc
ủng hộ, lần đầu tiên xử dụng tên HCM trong giấy tùy thân. Hai tuần sau
bị chính quyền địa phương bắt giam một năm, ông viết Nhật ký trong tù,
ngày 10-9-1943 HCM được thả nhờ người Mỹ vận động với Quốc dân đảng
Trung Hoa, HCM tham gia Ban chấp hành trung ương VN cách mệnh đồng minh
hội.
Cuối tháng 9-1944 Hồ Chí Minh về nước thành lập đội vũ trang tuyên
truyền giải phóng quân 34 người. Cuối 1944 ông trở lại Côn Minh cho tới
đầu 1945 và gặp Tướng Mỹ Chennault tại đây, ông này sẵn sàng giúp Việt
Minh. Họ muốn dùng VM chống Nhật giải cứu cho các phi công Mỹ, cung cấp
tin tức tình báo, đổi lại Mỹ giúp họ vũ khí, thuốc men, huấn luyện…
Tháng 7-1945 Hồ Chí Minh bị sốt rét rất nặng tưởng chết, toán OSS (US
Office of Strategic Servieces) đã giúp chữa bệnh cho ông, bác sĩ quân y
tên Paul Hogland đã ở đó 2 tháng và cứu sống họ Hồ.
Ngày 16-8-1945 Tổng bộ VM họp tại Tân Trào cử Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim
xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy
tình hình trong nước rất lộn xộn. Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính
quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị,
họ đã cướp được chính quyền. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn
thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu.
Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại quảng trường
Ba Đình. Họ Hồ có cho viên chỉ huy OSS biết là ông theo chủ nghĩa
Lénine, tham gia đảng CS Pháp, gia nhập Đệ tam Quốc tế vì họ có quan tâm
vấn đề thuộc địa. Người Mỹ cho rằng HCM là CS bù nhìn của Moscow, tới
cuối tháng 9-1946 họ rút hết cố vấn Mỹ về nước chấm dứt mọi liên lạc với
Việt Minh.
Võ Nguyên Giáp thay mặt HCM giải tán các đảng phái rồi tàn sát họ đẫm
máu, ngày 23-9-1945 Pháp tấn công Sài Gòn, ngày 6-1-1946 tổng tuyển cử
bầu Quốc hội. QH khóa I cử ra chính phủ kháng chiến do HCM làm chủ tịch
nước VN Dân chủ Cộng hòa vừa là Thủ tướng, về đối ngoại không được quốc
gia nào công nhận. Vì bị các đảng phái tố cáo HCM, Việt Minh là CS nên
tháng 11-1945 ông cho giải tán Đảng CS Đông Dương (giả vờ) và nhượng bộ
đối lập Việt Cách, Việt Quốc 70 ghế tại Quốc hội mà không qua bầu cử.
Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới
Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật tại miền
Bắc, sau đó thương thuyết với Việt Minh. Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc
cho đổ bộ lên Hải Phòng, VM ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp
vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (1) và củng cố nội bộ, tiêu
diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng
Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã
thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người (2). Đảng CS đã bắt đầu
nhúng tay vào máu của dân tộc VN, Giáp được Pháp giúp đỡ cho tấn công
các đảng phái QG, phái Troskist, Công giáo…
Cuối tháng 5-1946, HCM và Phạm Văn Đồng sang Pháp dự Hội nghị
Fontainebleau, Hội nghị thất bại, HCM ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng
thuộc địa Pháp Moutet. Tại Hà Nội hai bên ngày càng căng thẳng, tối
19-12-1946 Việt Minh tấn công quân Pháp mở đầu cho cuộc chiến tranh dài
nhất thế kỷ. Tháng 2-1947 VM rút lên Việt Bắc, sang năm 1948, Pháp mở
rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, Sơn Tây
và Việt Trì. VM chỉ hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công
voa.
Sang năm 1949, tháng 7 tới tháng 9 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm
Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phát Diệm và Bùi Chu. Từ giữa và cuối
1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển. Bernard
Fall nói khi Trung Cộng tiến sát biên giới Việt Hoa tháng 11-1949 thì
chương I của chiến tranh Đông Dương đã được đóng lại, người Pháp không
còn cơ hội chiến thắng (3). Năm 1950 gió đã đổi chiều khi Trung Cộng
chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn
luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên
304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã
đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự.
Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến
thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh
tan nát, thiệt hại khoảng 7,000 người và nhiều kho vũ khí, trận đánh
rung động cả nước Pháp, không ngờ VM có thể mạnh đến thế. Sự hình thành,
bành trướng lớn mạnh cũng như sống còn của VM không phải vì họ cướp
được chính quyền tháng 8-1945, không phải nhờ tài lãnh đạo siêu việt của
họ Hồ… mà nhờ Mao đã chiếm được toàn cõi Hoa Lục. Sự kiện CS Tầu thắng
thế họ Tưởng đã thay đổi khúc quành lịch sử tại Đông Dương, hơn thế nữa
nó còn ảnh hưởng tới cả thế giới từ đó cho tới tận ngày hôm nay. Tháng
1-1951 Trung Cộng giúp VM thành lập được 5 sư đoàn bộ binh và một sư
đoàn pháo binh.
Thời cơ đã tới cho họ Hồ, nếu Mao bị Tưởng đánh bại những năm 1946,
47…thì số phận của VM cũng sẽ tàn lụi theo vì không có sự giúp đỡ của CS
Tầu
Tết Canh Dần 1950 HCM sang Tầu, sang Nga, tại Đại hội đảng II giữa
tháng 2-1951, đổi tên đảng CS Đông Dương thành đảng Lao động VN, tại Đại
hội này, đảng Lao Động khởi xướng cải cách ruộng đất, xóa bỏ văn hóa
phong kiến, tiêu diệt bọn bóc lột, phản quốc, phản động, địa chủ, Việt
gian, cường hào, đối lập…để nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ
tháng 1-1952 họ Hồ gửi bản chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao
động VN cho Staline để “Đề nghị duyệt xét và chỉ dẫn”, HCM cho biết
chương trình hành động do chính ông và được Lưu Thiếu Kỳ giúp đỡ. Cải
cách ruộng đất được phát động cuối năm 1953 (tại hậu phương do VM kiểm
soát) sau 1954 được tiếp tục lại năm 1956, 1957 tại miền Bắc giết hại
trên một trăm nghìn người, đầu năm 1956 khởi sự sửa sai, HCM khóc lóc
nhận sai lầm.
Tình hình quân sự do HCM lãnh đạo, Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã đạt
nhiều thắng lợi nhờ viện trợ và huấn luyện của Trung Cộng. Sau trận Cao
Bắc Lạng tháng 10-1950, mấy tháng sau Tướng De Lattre được Pháp cử sang
làm Tư lệnh Đông Dương. Ông đã đánh thắng Võ Nguyên Giáp nhiều trận lớn,
chuyển bại thành thắng, nhưng De Lattre chỉ chiến đấu được gần một năm
thì bị bệnh nặng phải về Pháp. Từ đầu 1952, Tướng Salan lên thay khi VM
ngày càng mạnh, nhờ viện trợ Trung Cộng. Giữa năm 1953 Tướng Navarre, Tư
lệnh mới cho biết những năm 1953, 1954 quân lưu động VM rất mạnh khoảng
9 sư đoàn, gấp ba quân lưu động Pháp (4). Trận Điện Biên Phủ kéo dài từ
ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì thất thủ, 11 ngàn quân Liên Hiệp Pháp bị bắt
làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt
hại khoảng 10,000 người. Họ thắng trận nhờ viện trợ tiếp liệu ồ ạt từ
Hoa Lục sang.
Cuộc chiến tám năm khói lửa (1946-1954) giành độc lập của họ Hồ đã
gây lên cảnh núi xương sông máu: khoảng 300,000 thanh niên tử trận,
500,000 bị thương, 150,000 người thường dân thiệt mạng. Quân đội Liên
hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả
chết, bị thương và bị bắt (5). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường,
nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng hoang tàn vì bom đạn.
Hai bên đều mệt mỏi, ngày 20-7-1954 Pháp và Việt Minh ký kết Hiệp
định Genève chia đôi đất nước, quân Pháp và chính phủ Quốc gia Việt Nam
rút về miền nam dưới vĩ tuyến 17, thời hạn vào nam ra Bắc được ấn định
300 ngày. Tại các thành phố lớn Hà Đông, Hà Nội, Hải Dương…nhiều nhà đã
lên đường vào nam.
Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội, tại các đình làng người ta tổ
chức hội hè, ảnh Hồ chủ tịch treo ở giữa, hình Mao chủ tịch và đồng chí
Ma Lăng Cốp treo ở hai bên, thanh niên, thiếu nữ nhảy múa hát sol đố
mì….Khi cuộc di cư bắt đầu, tại các làng mạc người dân thường chọn ở lại
trong khi dân tỉnh lên máy bay tại Hà Nội hoặc xuống Hải Phòng lên tầu
vào nam. Mấy tháng sau khi Việt Minh về tiếp thu, Hà Đông Hà Nội đã y
như thành phố chết, vắng tanh vắng ngắt. Tại miền quê chính sách thuế
nông của VM đã làm người dân tuyệt vọng, thật là khủng khiếp, chính phủ
đánh thuế cao gấp mười lần thời Quốc gia nên nhiều gia đình trung lưu
không còn đường nào khác là ra đi. Rất nhiều người sống ở hậu phương
muốn vào nam nhưng điều kiện khó khăn đã khiến họ phải ở lại. Muốn đi
nam phải xuống Hải Phòng, muốn đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng phải có giấy
thông hành, chỉ có một số ít người xin được giấy của bà con ở Hà Nội về
cạo sửa làm giấy giả để lên tầu hỏa xuống Hải Phòng rồi vào Nam. Tổng
cộng có khoảng gần một triệu người di cư vào nam, nếu thời hạn di cư kéo
dài thêm thì số người ra đi còn tăng hơn nhiều.
Khoảng giữa năm 1955, khi cuộc di cư kết thúc, bác Hồ xuống Hải phòng
khóc than đồng bào đã hiểu lầm và bỏ xứ ra đi. Thập niên 60, HCM giảm
dần các hoạt động chính trị, ông hay sang Tầu tham quan, chữa bệnh nhất
là những năm 1967, 1968, 1969 ông đau nặng sang Tầu nhiều lần. Từ năm
1963 HCM tuyên bố sẽ bàn giao cho Lê Duẫn chỉ còn giữ vai trò tượng
trưng, quyền lực dần dần vào tay Duẫn. Nhờ người phụ tá đắc lực Lê Đức
Thọ mà Duẫn tạo dựng uy quyền tối thượng tại BV.
Một số người Tây phương (Pierre Asselin) cũng như Nguyễn thị Liên
Hằng (tác giả Hanoi’War) có nhận định cho rằng Duẫn đã cô lập Hồ, Giáp
và các đồng minh của họ để chiếm quyền lực tuyệt đối. Tôi nghĩ chuyện
này khó tin vì mọi người đều rõ Hồ chí Minh là tay lưu manh chúa cả thế
giới đều biết, chẳng lẽ lại chịu để bọn em út Duẫn, Thọ soán ngôi dễ
dàng như vậy. Nếu nói là HCM thiếu sức khỏe nhường địa vị cho Duẫn, Thọ
như dư luận phía CS cho biết thì còn tin được.
Trên thực tế các quyết định, kế hoạch lớn vẫn cần HCM chỉ đạo, phê
duyệt (thí dụ hòa đàm Paris) vì ông vẫn là Chủ tịch đảng (1951-1969),
sau khi HCM chết, không ai được cử thay thế chức vụ này. Nhiều người Mỹ
hiểu sai về tình hình chính trị đảng CSVN, cựu Tổng thống Nixon năm 1985
nói về sự sai lầm của TT Johnson những năm 1965, 1966,1967 :
“Chúng ta cần biết là không bao giờ dụ dỗ, mơn trớn Hồ Chí Minh từ bỏ
cuộc chiến mà phải bắt buộc ông ta từ bỏ nó” (No More Vietnams trang
82).
Sự thực trong những năm này HCM đã giao quyền cho Lê Duẫn. HCM mất
ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. CSVN tạo nhiều huyền thoại ca tụng HCM, ông là
nhà văn, nhà thơ, nhà cách mạng, biết nhiều thứ tiếng…Thời kỳ kháng
chiến, Việt Minh lưu truyền một bài thơ Hán văn dưới đây mà họ nói là
của bác (báo Sài Gòn thập niên 60 có cho đăng lại).
Thu dạ
Dạ bán canh thâm tiệm đắc nhàn
Thu phong thu vũ báo thu hàn
Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng
Du kích qui lai tửu vị tàn.
(tôi xin dịch xuôi:
Đêm Thu
Nửa đem canh khuya ta tạm được chút nhàn
Gió thu, mưa thu báo cái lạnh của mùa thu tới
Bỗng nghe tiếng sáo thu từ sườn núi bên kia vọng lại
Quân du kích trở về khi chén rượu (tiễn) chưa tàn)
Chẳng biết bài thơ có phải do bác làm hay không nhưng nội dung thật
là giả tạo, trận chiến tàn khốc máu chẩy thịt rơi được diễn tả thật thi
vị y như cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đời nhà Đường.
Có dư luận nói CSVN bắt chước như khỉ, thấy ngưới ta lấy tên lãnh tụ
Lénine đặt tên thành phố Saint Petersburg là Leninegrad cũng đặt tên Sài
Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Thấy người ta ướp xác Lénine tại quảng
trường đỏ cũng ướp xác họ Hồ tại quảng trường Ba Đình, thật là gớm
ghiếc. Nay bên Nga họ đang nghiên cứu đưa xác Lénine đem chôn vì việc
bảo quản tốn kém và dơ bẩn. Cái xác chết đúng lý phải đem chôn lại trưng
bầy cho thiên hạ tới ngắm, rất phản văn minh phản tiến bộ. Thấy người
ta dựng tượng cũng bắt chước dựng tượng khắp nơi, nay toàn quốc đang lên
cơn sốt tượng đài. Dân còn nghèo, lợi tức đầu người đứng thứ 138 trên
thế giới mà đã xây khoảng 140 tượng HCM, CSVN dự trù trong năm nay sẽ
cho xây thêm nhiều tượng cho đủ con số 200. Sơn La đang lên kế hoạch xây
tượng HCM với chi phí 65 triệu đô la, xây tượng, xây cầu.. chẳng qua
chỉ là để kiếm chác đục khoét công quĩ nhà nước.
Ngày nay tại VN nhiều chùa quốc doanh thờ tượng Hồ Chí Minh bên tượng
Phật, cái trò khỉ này bị coi là xúc phạm, Đức Phật là đấng từ bi không
giết đến một con giun, con kiến phải ngồi chung với kẻ sát nhân. Nhiều
người miền Bắc cho tới nay vẫn còn bị ảnh hưởng tuyên truyền nhồi sọ về
HCM, ngay cả đảng viên phản tỉnh trốn ra nước ngoài vẫn còn khen ngợi,
ca tụng HCM, thậm chí họ còn nói CSVN nay đi sai đường của bác.
Tư tưởng HCM thực ra chỉ là sự cóp nhặt tư tưởng Mác Lê, bác trình độ
tiểu học lấy đâu ra tư tưởng. Nhiều nhà sử gia Mỹ khen ông HCM là nhà
ái quốc, họ khen cho vui thôi thực ra họ thừa biết ông ta là tay sai Đệ
Tam Quốc tế, vả lại lời nói chẳng mất tiền mua, họ có mất vốn mất lãi gì
đâu?
Hồ Chí Minh là Chủ tịch đảng kiêm Chủ tịch nhà nước như Lénine của Sô
Viết, ông ta là Chủ tịch đảng duy nhất của CSVN (18 năm 195 ngày), sau
khi HCM chết, người đứng đầu đảng được mệnh danh là Tổng bí thư hay Bí
thư thứ nhất, Chủ tịch đảng chỉ dành riêng cho HCM, một chức vị danh dự.
Lê Duẩn
Giữ chức vụ Bí thư thứ nhất đảng Lao động VN từ 1960-1976, Tổng bí
thư đảng CSVN từ 1976-1986. Duẩn là người giữ chức Tổng bí thư lâu nhất
25 năm, người có uy quyền cao nhất của CSVN như Tập Cận Bình, Đặng Tiểu
Bình bên Tầu. Năm 1954, khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội người
ta chỉ nghe nói tới bốn nhân vật chủ chốt Hồ, Giáp, Chinh, Đồng và một
số sĩ quan cao cấp Thiếu tướng văn tiến Dũng, Đại tá Vương Thừa Vũ… khi
ấy Lê Duẫn, Lê Đức Thọ hoàn toàn vô danh, không ai biết tới
Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại Quảng Trị trong một gia đình nông dân, mất
ngày 10-7-1986. Năm 1920 học hết tiểu học, Duẫn học hết năm thứ nhất
trung học (đệ thất) rồi nghỉ. Năm 1926 làm nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi
đường rầy xe lửa Đà nẵng. Năm 1930 Duẫn gia nhập đảng CS Đông Dương, năm
1931 là ủy viên tuyên huấn Bắc kỳ, tháng 4-1931 bị Pháp bắt ở Hải Phòng
kết án 20 năm tù.
Năm 1939 Lê Duẩn được bầu vào Ban thường vụ trung ương đảng, năm 1940
bị Pháp bắt đầy ra Côn đảo án tù 10 năm, đến 1945 được đón về, năm 1946
làm việc bên Hồ Chí Minh. Từ 1946-1954 ông được cử làm Bí thư xứ ủy Nam
bộ, sau này là Trung ương cục miền nam, Chính ủy bộ tư lệnh nam bộ. Năm
1951 Lê Duẫn được vào Ban chấp hành trung ương (BCHTƯ) và Bộ chính trị
trong kỳ Đại hội đảng lần 2. Năm 1952 ra Việt Bắc họp Trung ương đảng
được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá tới đầu năm 1954, được cử làm quyền
bí thư Trung ương cục miền nam.
Năm 1954-1957 ông được phân công ở lại miền nam lãnh đạo, HCM chọn
Duẫn vì ông ta nắm vững đường lối trung ương am hiểu địa thế. Tới 1957
HCM gọi Lê Duẫn ra Hà Nội gấp để có thể điều hành công việc chung của
đảng. Tháng 9-1960 tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, Duẫn được bầu vào
BCHTƯ và Bộ chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất BCHTƯ đảng. Từ 1960 theo
một số nhận định HCM sức khỏe yếu, Lê Duẫn trở thành người có quyền
hành cao nhất.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV tháng 12-1976 và lần thứ V tháng 3-1982,
Duẩn tiếp tục được bầu giữ chức Tổng bí thư cho tới chết, tại Đại hội
V, Lê Duẩn sức khỏe yếu, Ban chấp hành giao một số việc cho Trường
Chinh. Lê Duẫn lên nắm quyền và tiếp tục theo đuổi cuộc chiến mà HCM
giao lại qui mô hơn, đẫm máu hơn. Tác giả Nguyễn thị Liên Hằng cách đây
mấy năm xuất bản cuốn Hanoi’s war, ý nói cuộc chiến này do Hà Nội phát
động. Tôi nghĩ nó không hoàn toàn đúng, nếu nói cuộc Thế chiến thứ II
tại Châu Âu do Bá Linh phát động hay cuộc Thế chiến tại Á châu do Đông
Kinh chủ trương thì hoàn toàn đúng vì họ tự làm được vũ khí, tự quyết
định được. Hà Nội không tự làm được vũ khí, họ phải xin viện trợ quân sự
của Nga, Trung Cộng, phải được CS quốc tế chấp thuận nên họ không tự ý
phát động cuộc chiến được.
Sở dĩ CS quốc tế chấp thuận viện trợ cho BV một số hàng khổng lồ tổng
cộng 2 triệu 362 ngàn tấn hàng hậu cần và vũ khí (6) vì BV là một quân
tốt quá lợi hại, là mũi nhọn xung kích của CS quốc tế để làm suy yếu đế
quốc. BV có lẽ là quân tốt của CS quốc tế hơn là một cường quốc quân sự.
Những năm cuối thập niên 50 VC bắt đầu đánh du kích và ám sát trưởng
ấp, xã trưởng, thập niên 60 họ cho xâm nhập các cán bộ tập kết, năm 1961
Việt Cộng gia tăng lực lượng tới 25,000 cuối năm 1961. TT Kennedy cho
tăng quân số VNCH lên 200,000 người, năm 1962 viện trợ cho VNCH ba đại
đội trực thăng H-21, 16 phi cơ vận tải C-123, hai chi đoàn thiết giáp
M-113 (7) …
Việt Cộng bị bao vây tiêu diệt dần dần, quân đội VNCH nhờ chiến thuật,
vũ khí mới đã đạt thắng lợi năm 1962. Năm 1964, lợi dụng tình hình chính
trị miền Nam xáo trộn, Lê Duẫn cho gia tăng xâm nhập cán binh, tiếp
liệu. Giữa năm 1965 trung bình một tuần VNCH mất một quận và một tiểu
đoàn, TT Johnson vội đưa quân sang ngăn chận CS, cho tới 1968 đã có tới
nửa triệu quân Mỹ tại miền nam. BV gia tăng xâm nhập, cuộc chiến mở
rộng. Vì sự sai lầm của Johnson đem áp dụng chiến tranh giới hạn
(limited war) vào VN kéo dài cuộc chiến khiến phong trào chống đối ngày
càng lên cao. Trận Mậu thân 1968 là thảm bại quân sự của BV nhưng lại là
thảm bại chính trị cho Johnson. Người Mỹ thua tại mặt trận đất nhà mặc
dù trong những năm 1965, 1966, 1967.. đã tiêu diệt được hàng mấy trăm
ngàn tên địch.
Lê Duẩn áp dụng triệt để chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào
chỗ chết khiến người dân và Quốc hội Mỹ quá chán chiến tranh Đông Dương.
Họ đã áp lực tân Tổng thống Nixon rút quân ký Hiệp định Paris tháng
1-1973, để rồi Quốc hội Dân chủ cắt giảm dần viện trợ quân sự cho VNCH,
tới tháng 2-1975 quân đội miền nam chỉ còn đủ đạn chiến đấu trong vòng
một tháng (8). Sài Gòn thất thủ ngày 30-4-1975, cuộc chiến giải phóng
miền nam của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thực ra chỉ là một cuộc ăn cướp vĩ đại
như nhận xét của ông Bùi Tín.
Tiếp tục sự nghiệp binh đao máu lửa của sư phụ, Lê Duẩn lãnh đạo một
cuộc chiến dài đằng đẵng bắt đầu từ cuối thập niên 50 cho tới cuối thập
niên 80. Mấy năm sau cuộc chiến cốt nhục tương tàn 1975, cuối thập niên
70 khởi đầu cuộc chiến giữa các chế độc Cộng Sản. Dưới thời Lê Duẫn,
chiến tranh loạn lạc liên tu bất tận khiến nhân dân khốn khổ trăm bề.
Rạn nứt giữa Bắc Kinh và Hà Nội khởi đầu từ 1968, Lê Duẩn có khuynh
hướng thân Nga và đụng chạm với Trung Cộng. Hai bên bất đồng quan điểm,
Bắc Kinh muốn CSVN dùng chiến tranh du kích có giới hạn nhưng Duẫn và
tập đoàn của ông muốn đánh qui ước để sớm chiếm được vựa lúa miền nam.
Hà Nội muốn nói chuyện trực tiếp với Mỹ tại Paris bắt đầu tháng 5-1968
mà Trung Cộng phản đối cuộc hòa đàm này. Tới năm 1972 khi Nixon sang Tầu
bắt tay Mao Trạch Đông thì bị BV cho là phản bội cách mạng, từ năm
1973, giới lãnh đạo Bác Kinh cho biết CSVN là kẻ thù. Năm 1975 Lê Duẫn
sang Tầu từ chối liên minh với Bắc Kinh chống lại Liên Xô. Hà Nội càng
thân Nga, Tầu đỏ càng sợ bị cô lập, tháng 7-1978, Trung Cộng cắt hết
viện trợ, rút cố vấn về nước.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký Hiệp ước hữu nghị với Nga về thương mại văn hóa
và cả quốc phòng, an ninh hai nước để phòng thủ chung khiến Bắc Kinh lo
ngại thế gọng kìm Nga phương Bắc và CSVN phương nam. Tháng 4 và tháng
9- 1977 Khmer đỏ được Bắc Kinh giúp đỡ khuyến khích đã tấn công vào lãnh
thổ VN bằng các sư đoàn chính qui, đốt phá làng mạc, giết hại dân lành.
CSVN cũng cho quân đánh sâu vào đất Miên rồi rút lui, cuối 1978 Pol Pốt
huy động hàng trăm ngàn ngưới tấn công toàn biên giới, CSVN sau cùng
huy động 6 quân đoàn (khoảng 15 sư đoàn,180,000 quân) gồm cả pháo, xe
tăng, máy bay… Từ đầu tháng 12-1978 cho tới cuối tháng 3-1979 CSVN đã
chiếm đươc gần hết lãnh thổ Miên và thành lập chính quyền mới, cho tới
tháng 12-1989 thì rút khỏi Khmer theo điều kiện của Mỹ để được bãi bỏ
cấm vận và bang giao. Theo dữ kiện phía CS cho biết có khoảng 15,000
quân CSVN bị giết, 30,000 người bị thương phía Khmer đỏ có hàng trăm
nghìn bị tử thương chưa kể thường dân.
Trung Cộng đã khiêu khích biên giới từ lâu nay yêu cầu Hà Nội phải
rút khỏi Miên nếu không sẽ đánh thẳng vào VN. Ngày 17-2-1979 họ đưa
khoảng từ 300 ngàn tới 500 ngàn quân tấn công trên toàn biên giới, chiếm
được các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng và một số thị trấn khác rồi rút quân
một tháng sau vào ngày 16-3. Tổn thất nhân mạng mỗi bên khoảng 20,000
người. Cuộc chiến đã để lại nhiều ảnh hưởng lâu dài với kinh tế VN, cuộc
xung đột còn kéo dài hơn 10 năm nữa.
Lê Duẩn người nắm quyền tuyệt đối của Hà Nội đã gây nên nhiều cuộc
chiến trong mấy chục năm sau Hiệp định Genève, đồng thời tập đoàn của
ông ta đưa ra đường lối sai lầm về kinh tế. Hậu quả của các cuộc chiến
tranh liên miên đưa tới khủng hoảng về kinh tế, đời sống. Từ 1976 tới
1986 CSVN bị cô lập, ông Trần Văn Thọ (Giáo sư Đại học Waseda, Đông
Kinh) nói về kinh tế thời Lê Duẩn: mười năm sau năm 1975 là một giai
đoạn tối tăm nhất trong lịch sử VN. Là một nước nông vi bản, 80% là dân
quê, thiếu ăn phải ăn độn bo bo, khoai sắn từ 1976 tới 1979. Lương thực
theo đầu người giảm liên tục từ 1976 tới 1979, sau đó có tăng trở lại
nhưng cũng không bằng 1976. Sản xuất công nghiệp đình trệ, vật dụng
thiếu, nhân dân vô cùng khốn khổ. Nguyên nhân chính do sai lầm trong
chính sách phát triển nhất là vội vã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa
vào kinh tế miền nam. Nguy cơ thiếu ăn kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới
cuối năm 1986 mới biến chuyển. Tổng sản lượng trong 10 năm trước ngày
đổi mới (1976-1986) chỉ thăng 35% (trung bình một năm 3,5%) trong khi
dân số tăng 22%, lợi tức đầu người chỉ tăng khoảng 1%. Việt Nam trong
khoảng thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói nhât thế giới.
Áp dụng mô hình Xã hội chủ nghĩa, một lý thuyết kinh tế mọi rợ từ một
xã hội bán khai vào một đất nước tân tiến như miền nam VN thất bại
không có gì khó hiểu. Nó cho thấy Lê Duẫn và tập đoàn ấu trĩ lạc hậu là
nhường nào, Lê Duẩn một con người thất học và độc đoán, nắm mọi quyền
lực trong tay đã tàn phá đất nước và đầy đọa dân tộc ta như thế nào.
Lê Duẫn nói
“Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các
nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang
đâm vào lưng ta”
Xin hãy nghe nhà lãnh đạo học lực tiểu học phát biếu vào dịp Tết 1976 như sau:
“Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”
Câu nói này của Duẫn chỉ khiến cho dân Sài Gòn cười bể bụng, những cái mà ông ta hứa hẹn họ đã có từ trên mười năm trước
Mồng một Tết 1976, Duẫn về thăm quê tại làng Hậu Kiên, Quảng Trị nói:
“Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con
ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ,
nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân
giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có
một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó.”
Thật là ghê tởm cho cái phản văn minh, phản tiến bộ mà Duẩn đem lại cho đất nước.
Được Hồ Chí Minh gọi về Bắc và giúp cho lên giữ chức Bí thư thứ nhất
thay thế Trường Chinh năm 1957, Lê Duẫn dần dần trở thành nhân vật số
một của chế độ. Duẫn phạm nhiều tội ác với dân tộc VN gấp bội lần HCM,
cuộc chiến mà ông ta ngoan cố tiến hành vĩ đại hơn và tàn phá đất nước
gấp mười lần cuộc chiến tám năm khói lửa của họ Hồ. Duẫn đã biến VN trở
thành quân tốt quá lợi hại của CS quốc tế, đã làm đổ quá nhiều xương máu
của nhân dân ta qua ba cuộc chiến liên tục từ 1958 cho tới cuối 1989.
Theo tiết lộ mấy năm gần đây của ông Bùi Tín và một số cựu đảng viên, Lê
Duẫn và đồng bọn đã chia chác nhau 18 tấn vàng lấy được từ Ngân hàng
quốc gia VNCH năm 1975. Người ta cho biết nay không còn dấu tích gì của
số vàng khổng lồ này.
May mà Duẫn chết bệnh để rồi chính sách đổi mới thay thế con đường mọi
rợ độc đoán của một nhà lãnh đạo vô học như ông ta đã kéo dài mấy chục
năm đằng đẵng.
Trường Chinh
Tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện,
Nam Định, mất ngày 30-9-1988 tại Hà Nội. Trường Chinh đã hai lần giữ
chức Tổng bí thư, ngoài ra ông giữ chức Chủ tịch nhà nước 1981-1987, Chủ
tịch Quốc hội 1960-1981.
Năm 1954, khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội, bốn nhân vật
chính của đảng là Hồ Chí Minh Chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nhà nước, Võ
Nguyên Giáp Tổng tư lệnh quân đội nhân dân, Trường Chinh Tổng Bí Thư
đảng, Phạm Văn Đồng Phó thủ tướng, trong đó Trường Chinh được coi là
nhân vật số hai của chế độ. Trường Chinh viết sách báo tuyên truyền cho
Việt Minh như một lý thuyết gia của chế độ nhưng thực ra tư tưởng của
ông cũng không có gì mới lạ. Ông ta nổi tiếng ở chiến lược trường kỳ
kháng chiến nhất định thành công.
Đặng Xuân Khu thuộc gia đình nho giáo, từ nhỏ đã học Tứ Thư, Ngũ
Kinh, thơ Đường, lớn lên theo Tây học bậc thành chung (đệ nhất cấp sau
này), vì tham gia chính trị nên bị đuổi học năm 1926. Năm 1927 Xuân Khu
lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng thương mại, năm 1929 Khu vận động
thành lập Đông Dương CS đảng và là một trong những đảng viên đầu tiên.
Cuối năm 1930 bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù, năm 1936 được trả tự do.
Tại hội nghị Trung ương khóa 7 họp tại Bắc Ninh tháng 11-1940, Trường
Chinh được bầu vào Ban CHTƯ cùng được cử làm quyền Tổng bí thư thay thế
Nguyễn văn Cừ. Tháng 5-1941 tại Hội nghị trung ương lần thứ 8 họp tại
Cao Bằng, Trường chinh được bầu Tổng bí thư kiêm trưởng ban tuyên huấn
Trung ương, năm 1943 bị Pháp xử tử hình khiếm diện.
Tháng 3-1945, ông triệu tập Hội nghị thường vụ trung ương xác định
thời cơ tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị cho
Cách mạng tháng tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của đảng do Trường
Chinh trụ trì, ông được giao phụ trách ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Cuối
năm 1945, đảng CS Đông dương tự tuyên bố giải tán (giả vờ) và chuyển
thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do Trường Chinh làm hội
trưởng.
Kháng chiến bùng nổ cuối năm 1946, ông viết một loạt bài nổi tiếng
rất dài với tựa đề “Kháng chiến nhất định thắng lợi” trên báo Sự thật
năm 1947. Võ Nguyên Giáp nhận định bác Hồ là linh hồn của kháng chiến,
Trường Chinh là người đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận.
Năm 1951 tại Đại hội đảng lần thứ 2, đổi tên đảng là Đảng Lao động VN,
ông lại được bầu vào Ban CHTƯ và giữa chức Tổng bí thư cho tới tháng
10-1956. Báo Cứu quốc đăng bài giới thiệu đánh giá: Hồ chủ tịch là linh
hồn của cách mạng thì ông Trường Chinh là bàn tay điều khiển chỉ huy.
Năm 1951 đường lối cải cách ruộng đất được đưa ra trong báo cáo chính
trị của Trường Chinh tại Đại hội lần thứ 2, thừa nhận những địa chủ
không phản quốc có quyền công dân, quyền tài sản. Năm 1953Việt Minh
chiếm ưu thế chiến trường, Trường Chinh được cử làm trưởng ban cải cách
ruộng đất Trung ương. Cuộc cải cách ban đầu có kết quả, tịch thu tài sản
của bọn phản quốc chia cho bần cố nông.
Sau khi kiểm soát được miền bắc, cuối năm 1954 do áp lực của các cố
vấn Tầu, chiến dịch Cải cách ruộng đất được đẩy mạnh tới chỗ tàn bạo, đổ
máu, bắn giết..khiến hơn một trăm ngàn người bị thiệt mạng. Trường
Chinh phải chịu trách nhiệm và từ chức Tổng bí thư, sau đó ông đứng đầu
công tác sửa sai. Năm 1958 Trường Chinh được bổ nhiệm Phó thủ tướng kiêm
chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước. Năm 1960 được bầu vào Ban CHTƯ, Ủy
viên Bộ chinh trị, Chủ tịch quốc hội cho tới năm 1976. Sau khi chiếm
được miền nam ngày 30-4-1975, Trường Chinh tuyên bố trên đài phát thanh:
“Nay nhà nhà ai nấy đều đã có cơm ăn áo mặc, trẻ em đều được cắp
sách đến trường, đó là những thành quả của đảng ta mà qua lịch sử VN từ
xưa tới nay chưa ai thực hiện được”
Không hiểu người miền Bắc nghĩ sao về lời nói của ông Chủ tịch quốc
hội, người miền nam, dân Sà goòng nghe xong thì họ cười bể bụng!
Năm 1981 ông được bầu vào chức Chủ tịch hội đồng nhà nước, Chủ tịch
hội đồng quốc phòng, ngày 14-7-1986 Trường Chinh được bầu làm Tổng bí
thư thay thế Lê Duẫn chết bệnh.
Tháng 12-1986 tại Đại hội đảng lần thứ 6 ông rút khỏi các chức vụ
quan trọng của đảng và nhà nước, làm cố vấn cho BCHTƯ đảng. Trường Chinh
mất ngày 30-9-1988 thọ 81 tuổi. Người ta cho rằng Trường Chinh là người
bảo thủ, phụ trách tuyên truyền nhưng chính ông là người phát động đổi
mới nhường chỗ cho Nguyễn Văn Linh tại Đại hội 6. Ông ta nói trên truyền
hình tôi và đồng chí Lê Đức Thọ xin không ghi danh ứng cử…
Trường Chinh là người tán thành đổi mới nhằm đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng 10 năm sau ngày chiếm được miền nam, Võ Văn Kiệt nói Trường
Chinh là Tổng bí thư đổi mới. Các cán bộ cao cấp đánh giá Trường Chinh
là người đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng, tạp chí Cộng sản nói
Trường Chinh là Tổng bí thư đặt nền móng cho công cuộc đổi mới, ông được
coi là người bảo thủ nhưng cuối đời quan điểm của ông thay đổi thành
cấp tiến.
Thực ra theo lời một cán bộ trung cấp, giám đốc hồi hưu (tôi được
tiếp xúc năm 1989) cho biết Gorbachov, Tổng bí thư CS Liên xô đã cử
người sang làm đảo chính không cho đổ máu. Tôi nghĩ nếu không có sự ép
buộc của Liên Xô lớp người bảo thủ như Trường Chinh, Lê Đức Thọ sẽ còn
nắm quyền dài dài, đến Tết họ mới chịu thoái vị. Một cố vấn của Trường
Chinh phát biểu: Giữa năm 1986 đói khổ, các dự án lớn thất bại, nguyên
liệu khan hiếm, lạm phát 300, 400, 500, 700%… Lòng dân hoang mang, trong
khi khủng hoảng Trường Chinh quyết định táo bạo đưa đất nước phát triển
theo đường lối mới sau khi đã trải qua những sai lầm.
Sự thực ngoài đổi mới ra họ không còn đường nào khác khi Nga bắt đầu
từ bỏ CS, từ bỏ kinh tế chỉ huy sang kinh tế tự do. Trong bài “VN từ
1990”, William S. Turley nói về đổi mới của CSVN như sau: sự sụp đổ của
Đông Âu khiến CSVN bị cô lập, từ 1985 bắt dầu rút khỏi Căm Phu Chia,
tháng 9-1989 rút hết. VN cải thiện quan hệ các nước láng giềng, bang
giao với Mỹ từ 1995, cùng năm được gia nhập khối ASEAN cho thấy VN được
hội nhập với các nước khác, tái lập hòa bình. Họ tập trung cải cách kinh
tế cuối thập niên 80, chính phủ tiến hành những bước thực tiễn, đáp ứng
thực trạng trong nước. CSVN đổi mới vì họ không còn con đường nào khác.
Những điểm chính đổi mới gồm: luật đầu tư có chút cấp tiến, bãi bỏ hợp
tác xã nông nghiệp, chấm dứt bao cấp, giảm bỏ các công ty quốc doanh.
Việc làm ở lãnh vực tư gia tăng, đầu tư ngoại quốc tăng, khai thác dầu,
sản xuất hàng công nghiệp nhẹ, kỹ nghệ du lịch. Trong thời gian ngắn VN
chuyển từ giao thương với các nước CS sang giao thương với Hồng Kông,
Singapore, Nam Hàn, Đài Loan, Nhật…
Đó là cái nhìn của Tây phương về đổi mới.
Từ ngày CSVN thành hình cho tới cuộc chiến chống Pháp, Trường Chinh
luôn là cánh tay phải đắc lực của họ Hồ, của đảng. Gần cuối năm 1956 ông
ta từ chức Tổng bí thư vì cải cách ruộng đất, Lê Duẩn lên thay.
Nếu không có Cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn làm Tổng bí thư,
ông ta không chống Tầu như Lê Duẫn, tôi nghĩ cuộc chiến sẽ nhỏ hơn trong
những năm 1965, 1966, 1967… không đẫm máu như thời Lê Duẫn và chắc sẽ
không có cuộc chiến Việt- Miên, Việt-Hoa cuối thập niên 70.
(còn tiếp)
———————————————————-
(1) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15
(2) Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH năm 1972, trang 22
(3) Street Without Joy trang 32
(4) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 47
(5) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine
(6) BBC.Vietnamese.com ngày 10-5-2006: Viện trợ quốc tế cho miền Bắc
trong chiến tranh. Đăng Phong, Năm Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản
Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(7) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 20, 21.
(8) Cao Văn Viên, Những ngày cuối VNCH trang 92
Wednesday, September 16, 2015
Từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Tấn Dũng [1]


Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment