Nguồn: Yinghong Cheng, “Beyond Moskva-Centric
Interpretation: An Examination of the China Connection in Eastern Europe
and North Vietnam during the Era of De-Stalinization”, Journal of World History, Vol. 15, No. 4, December 2004.
Biên dịch: Lê Quỳnh
Năm 1956 và 1957 đánh dấu cuộc khủng hoảng trầm trọng đầu tiên trong
khối cộng sản toàn cầu thời Chiến tranh Lạnh với nhiều sự kiện quan
trọng. Bài nói chuyện mật của Nikita Khrushchev tại Đại hội 20 của Đảng
Cộng sản Liên Xô tháng Hai 1956 tiết lộ những tội ác của Stalin đã gây
sốc cho thế giới cộng sản và châm ngòi cho giai đoạn hạ bệ Stalin, mà
không lâu sau đó đã tạo nên những thách thức cho chính hệ thống cộng
sản, qua những cuộc nổi loạn ở Ba Lan và Hungary tháng 10 và tháng 11
năm 1956. Tại các nơi khác ở Đông Âu, mặc dù nhìn chung không nổ ra các
phản kháng chính trị quyết liệt, nhưng những tranh luận trong nội bộ
Đảng và bất bình của trí thức diễn ra phổ biến, đi kèm là những cuộc
biểu tình và bãi khoá lẻ tẻ của công nhân và sinh viên.
Ở các nước cộng sản châu Á, sự bất bình trong giới trí thức và phê
phán Đảng trở nên dễ thấy ở Trung Quốc, đặc biệt vào mùa xuân 1957, khi
có phong trào Trăm hoa Đua nở và thời kì Chỉnh huấn, kèm theo là một số
vụ đình công của công nhân và bãi khoá của sinh viên. Ở miền Bắc Việt
Nam, người trí thức đã trực tiếp thách thức Đảng trong phong trào gọi là
Nhân văn – Giai phẩm (tên của hai ấn phẩm chỉ trích Đảng)
trong giai đoạn mùa Thu 1956, gắn liền với biến cố nông dân nổi loạn ở
tỉnh Nghệ An và bất ổn tại các đô thị. Cách mạng Hungary bị đàn áp tháng
11-1956, và môi trường ở Liên Xô và Đông Âu trải qua những thay đổi đầy
kịch tính. Tuy nhiên, vì các trí thức Trung Quốc vẫn còn được khuyến
khích chỉ trích Đảng vào mùa Xuân 1957, trí thức ở Việt Nam lại một lần
nữa mở cuộc chỉ trích chính quyền. Nhưng vào tháng Sáu 1957, Trung Quốc
mở chiến dịch chống quan điểm hữu khuynh và chấm dứt thời kì “giải
phóng”, và Việt Nam cũng làm như vậy khi bước vào năm 1958. Và như thế
cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản được giải quyết xong.
Khi kể lại và phân tích các sự kiện trên, các sử gia đã chủ yếu dựa
vào một sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm. Đa số các nhà sử học
lấy Moskva – đặc biệt là Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô – làm
trung tâm của thay đổi chính trị trong khi đặt các nước cộng sản khác ở
đường biên. Những nhà nước ở ngoại vi này ban đầu có phản ứng bị sốc và
lúng túng trước Moskva, nhưng rồi nhiều nước đã nhanh chóng sử dụng cơ
hội để khẳng định tư tưởng cải tổ của họ, tư tưởng mà bình thường sẽ khó
mà biện hộ được. Cái sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm này nhìn
chung phản ánh sự thật lịch sử vì ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Liên
Xô trong cộng đồng cộng sản thời kì ấy và còn vì thứ tự thời gian căn
bản của các sự kiện. Nhưng khi áp dụng một khung diễn giải bao quát cho
lịch sử, ta cần cảnh giác trước những nhược điểm của nó. Nhược điểm
chính của các diễn giải lấy Moskva làm trung tâm là khuynh hướng bỏ qua
và đánh giá thấp những điểm gốc tạo nên thay đổi chính trị ngoài những
điểm gốc ở Moskva cùng những liên hệ và sự tương tác không nhất thiết
tập trung ở Moskva. Trong một số trường hợp, điều này đưa đến sự giản
lược hoá một hoàn cảnh lịch sử phức tạp và diễn giải sai lầm những liên
hệ và sự tương tác giữa các nước cộng sản.
Bài viết này xem xét tiến trình phê phán Stalin, hay còn hiểu là giải
phóng, từ góc nhìn dựa vào sự liên hệ với Trung Quốc tại Đông Âu và
Việt Nam – một góc nhìn đã hoặc bị đánh giá thấp hoặc bị bỏ qua trong
những phân tích lấy Moskva làm chính [2] . Thuật ngữ “sự liên
hệ với Trung Quốc” có ý nghĩa là một ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc
hoặc những diễn biến song song giữa các nước này và Trung Quốc. Bài
viết này giới thiệu và liên hệ hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là
ảnh hưởng của Trung Quốc tại một số nước Đông Âu, và thậm chỉ cả ở Liên
Xô, từ 1955 đến 1958. Thứ hai là sự thách thức chính quyền của các trí
thức Việt Nam và phản ứng của chính quyền, cả hai cho thấy những sự
tương tự thú vị giữa hai quốc gia. Sự liên hệ với Trung Quốc ở cả trường
hợp Đông Âu và Việt Nam cho thấy rõ là có một nguồn gốc khác góp phần
vào quá trình hạ bệ Stalin và thậm chí gợi ý về một khung thời gian mở
rộng của các biến cố ngay từ đầu năm 1955 (tức là trước “Báo cáo mật”
của Khrushchev) đến tận cuối 1958 (một năm sau khi Liên Xô dập tắt cuộc
nổi dậy ở Hungary), và như thế giúp làm giàu thêm hiểu biết của chúng ta
về cuộc khủng hoảng cộng sản toàn cầu nhờ các nguồn rộng hơn và khung
thời gian dài hơn.
Trường hợp Đông Âu
Đối với đa số các sử gia, ảnh hưởng quan trọng của Trung Quốc tại
Đông Âu sau cái chết của Stalin bắt đầu với vai trò của nước này trong
việc giải quyết khủng hoảng chính trị ở đó vào tháng 10 và 11 năm 1956 [3]
. Nói ngắn gọn, khi Moskva quyết định dùng vũ lực dập tắt cuộc nổi dậy
của công nhân Ba Lan vào giữa tháng 10-1956, Bắc Kinh đã phản đối quyết
định này với lý do là vấn đề Ba Lan xảy ra không phải vì âm mưu chống
chủ nghĩa xã hội của phương Tây mà chủ yếu là do “chủ nghĩa sôvanh nước
lớn” (ám chỉ sự kiêu ngạo và can thiệp của Moskva vào công việc nội bộ
của các nước). Ngược lại, khi Moskva còn nhùng nhằng giữa việc dùng vũ
lực hay để yên trước cuộc khủng hoảng Hungary vào cuối tháng 10, Bắc
Kinh đã thúc giục Moskva gửi quân vào Budapest. Theo một số nguồn tư
liệu Trung Quốc được công bố vào cuối thập niên 1990, từ ngày 19 đến 31
tháng Mười 1956, thời điểm khi cuộc khủng hoảng Ba Lan – Hungary lên đến
cao trào, liên lạc và thảo luận giữa Moskva và Bắc Kinh cũng liên tục
và dồn dập đến bất thường.
Ngày 19-10, sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan chọn Wladislaw Gomulka,
người mà Kremlin xem là có thái độ đáng ngờ với Moskva, làm lãnh đạo
mới, thì Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc, đã thông báo cho
Bắc Kinh về tình hình gay go ở Warszawa, ám chỉ khả năng quân đội Liên
Xô sẽ can thiệp ở Ba Lan. Mao Trạch Đông tức khắc mở cuộc họp Bộ Chính
trị mở rộng và quyết định không đồng ý với sự can thiệp quân sự do
Moskva dẫn dắt. Ngày hôm sau, Mao gặp Yudin và yêu cầu ông thông báo cho
Moskva về quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay tức thì và “đúng
từng chữ”. Ngày 21-10, Mao lại triệu đại sứ Liên Xô đến, một lần nữa
bày tỏ lo ngại, và cũng cho biết sự không hài lòng trước việc Khrushchev
công kích Stalin, điều mà phía Trung Quốc cho là đã tạo nên khủng
hoảng. Cùng lúc đó, tình hình ở Hungary trở nên căng thẳng hơn và Moskva
không còn nghĩ rằng kênh đại sứ là đủ hiệu lực. Vì thế, theo yêu cầu
của Moskva, một phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình
dẫn đầu đã đến Moskva ngày 23-10 và ở lại đó đến 31-10, khi mà xe tăng
Nga tiến vào Budapest. Trong thời gian ở lại, phái đoàn Trung Quốc được
thông báo về diễn biến ở Hungary và mỗi ngày đều nhận được sự tham vấn
từ Khrushchev và các lãnh đạo khác của Liên Xô. Các thành viên trong
đoàn thậm chí đã tham dự các cuộc họp khẩn của đoàn chủ tịch Đảng Cộng
sản Liên Xô ngày 24 và 26-10.
Những khoảnh khắc quan trọng nhất xảy ra vào ngày 29 và 30-10. Vào
chiều 29-10, Khrushchev và các lãnh đạo Liên Xô khác gặp phía Trung Quốc
tại nơi phái đoàn ở và cho biết cả Ba Lan và Hungary đang yêu cầu
Moskva rút quân khỏi hai nước. Mặc dù vẫn đòi Moskva thay đổi thái độ
“sôvanh nước lớn” đối với các nước cộng sản khác, nhưng ông Lưu Thiếu Kỳ
nói trong hoàn cảnh hiện tại, tốt hơn là quân đội Liên Xô hãy ở lại và
đối đầu với những phần tử phản cách mạng. Trong lúc đang nói chuyện,
phái đoàn Trung Quốc nhận được điện thoại của Mao, người có đề nghị khác
với Lưu. Mao nói đã đến lúc Moskva phải rút quân ra khỏi cả hai nước và
để họ được độc lập. Lưu chấp nhận ý kiến của Mao và chuyển lại thông
điệp cho Khrushchev. Nhưng ngày hôm sau, phái đoán Trung Quốc nhận được
báo cáo tình hình từ phía ban lãnh đạo Liên Xô. Báo cáo được viết bởi
Anastas Mikoyan, phó thủ tướng thứ nhất và là người liên lạc khéo léo
giữa Moskva và các nước cộng sản khác, người đã được gửi đến Hungary
trước khi phái đoàn Trung Quốc đến Moskva.
Báo cáo nói rằng từ hôm 29-10, sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi
Budapest và giải tán lực lượng an ninh Hungary, thủ đô và nhiều nơi khác
của Hungary đã rơi vào hỗn loạn và các phần tử phản cách mạng đang tàn
sát những người cộng sản. Phái đoàn Trung Quốc bị ngạc nhiên. Sau một
ngày thảo luận, họ kết luận rằng tính chất của sự kiện ở Hungary khác
với ở Ba Lan, vì thế quân đội Liên Xô cần quay lại thủ đô và đè bẹp bọn
phản cách mạng. Sau đó vào buổi chiều, Lưu Thiếu Kỳ gọi cho Mao. Mao
thay đổi quan điểm ban đầu rằng phía Nga cần rút quân, và nay đồng ý với
kết luận của phái đoàn vì ngoài báo cáo của Lưu, Mao còn nhận được báo
cáo hàng ngày từ Hungary của Hồ Đức Khánh, đại sứ Trung Quốc, và Hồ Quý
Bang, phóng viên của Nhân dân Nhật báo ở Budapest. Nhưng Mao
nói nếu phía Nga chờ lâu một chút để có thêm các phần tử phản cách mạng
lộ diện thì sẽ tốt hơn – một chiến thuật đặc Mao mà sau này được dùng để
phát hiện phe hữu khuynh ở Trung Quốc.
Sau khi gọi cho Mao, phía Trung Quốc yêu cầu có cuộc họp khẩn với
người Nga. Tại cuộc họp, Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mạnh mẽ đề nghị Khrushchev không “bỏ
cuộc” ở Hungary mà hãy nỗ lực hơn để cứu vãn tình thế, trong khi Đặng
Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai thúc giục
quân đội Nga quay lại thủ đô và nắm chính quyền. Nhưng Khrushchev ngần
ngừ. Ông nói với phía Trung Quốc rằng vì tình hình đã thay đổi khá nhiều
ở Hungary, nên sự trở lại của quân Nga sẽ đồng nghĩa với sự chiếm đóng
đất nước và người Nga sẽ bị xem là kẻ chiếm đóng. Vì thế ban lãnh đạo
Liên Xô, Khrushchev thông báo cho phía Trung Quốc, đã quyết định không
đưa quân quay lại. Vì phía Nga đã quyết định như vậy, Trung Quốc không
dấn thêm nữa. Thay vào đó, Lưu nói đùa với phía Nga rằng hôm qua chúng
tôi thuyết phục các đồng chí rút quân nhưng các đồng chí không chịu; hôm
nay các đồng chí đến đây và tìm cách thuyết phục chúng tôi đồng ý với
quyết định rút quân. Mọi người có mặt ở buổi họp bật cười. Lưu lại nói
phái đoàn Trung Quốc sẽ trở về Bắc Kinh chiều hôm sau. Nhưng vào chiều
hôm sau, 31-10, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện từ Kremlin ngay
trước lúc họ ra sân bay. Các lãnh đạo Nga yêu cầu phía Trung Quốc đến
phi trường sớm hơn một tiếng để dự cuộc họp khẩn. Tại phi trường, đoàn
Trung Quốc gặp Khrushchev và các lãnh đạo khác của Nga. Khrushchev nói
ban lãnh đạo Nga đã thay đổi ý kiến trong đêm và quyết định đưa quân
quay lại Budapest. Tỏ rõ phấn khởi, Lưu Thiếu Kỳ nói Trung Quốc vui mừng
rằng ban lãnh đạo Nga đã đứng ra bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Thực tế,
trước cuộc họp ở sân bay, quân đội Nga đã di chuyển quay lại thủ đô
Hungary.[4]
Sự do dự của Moskva khi giải quyết cuộc khủng hoảng Hungary, được
phản ánh qua ghi chép của Trung Quốc, có thể được xác nhận bằng chính
lời của Khrushchev: “Không biết đã bao nhiêu lần chúng tôi thay đổi ý
kiến về việc rút khỏi Hungary hay ‘đè bẹp cuộc nổi loạn’” [5]
. Khó xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với Moskva
trong các quyết định, nhưng như ta thấy qua ghi chép trên của Trung
Quốc, phía Trung Quốc quả thực đóng một phần vai trò trong tiến trình và
phía Nga quả thực xem trọng thái độ của Trung Quốc. Ngày 3-11-1956, ba
ngày sau khi xe tăng Nga tiến vào Budapest, Nhân dân Nhật báo
của Trung Quốc là một trong các tờ báo cộng sản đầu tiên ca ngợi Liên Xô
đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary. Trung Quốc còn ủng hộ thay đổi chính trị
ở Hungary bằng việc gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đến Budapest giữa tháng
Giêng 1957 khi tình hình còn bất ổn, và xe tăng Liên Xô đã phải canh gác
chỗ ở của ông Chu, mặc dù ông chỉ ở lại đây một ngày.
Trong lịch sử ngoại giao Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc trong
khủng hoảng Ba Lan – Hungary đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc bày tỏ
quyền lực của họ tại châu Âu, “một diễn biến mà Liên Xô sau này sẽ ân
hận”, như lời của Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson [6] .
Mặc dù các chi tiết về quan điểm cứng rắn của Trung Quốc trong khủng
hoảng Hungary không được biết tới cho mãi đến cuối thập niên 1990, nhưng
sự ủng hộ công khai trước việc đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary – thể hiện
qua sự có mặt của phái đoàn Trung Quốc ở Moskva vào thời điểm xảy ra,
các tuyên bố chính thức nhanh chóng, và chuyến thăm của Chu Ân Lai đến
Budapest – thường được xem là chỉ dấu về thái độ của Trung Quốc đối với
cuộc khủng hoảng trong bốn thập niên kế tiếp.
Nhưng thái độ của Trung Quốc đối với khủng hoảng Hungary, dù có cứng
rắn và ấn tượng đến đâu, thì cũng chỉ là một khía cạnh trong chính sách
và ảnh hưởng của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin hay còn gọi là
giải phóng. Sự chỉ trích “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” của Nga, quyết định
bác bỏ sự can thiệp của Nga trong khủng hoảng Ba Lan, và ý kiến của Mao
rằng quân đội Nga nên rút khỏi Ba Lan và Hungary trước khi tình hình
trở nên xấu đi, cho thấy một thái độ phức tạp hơn của Trung Quốc. Nếu
chúng ta mở rộng cái nhìn ra toàn bộ giai đoạn phê phán Stalin và xem
xét lại một số dữ kiện ít được quan tâm trước và sau khủng hoảng Ba Lan –
Hungary, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy một Trung Quốc khác. Một Trung
Quốc mà thái độ mang tính cởi mở (nếu xét từ góc nhìn thuần tuý Stalin
và bất kể mưu tính đằng sau thái độ ấy là gì) cũng xuất hiện giữa những
người cải cách hoặc chống Stalin ở Đông Âu ngay từ năm 1955 và kéo dài
cho đến mùa hè 1957, hơn nửa năm sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt.
Có bằng chứng rằng Trung Quốc bắt đầu thu hút chú ý từ một số nước
Đông Âu trong thời gian khi, ngay sau cái chết của Stalin, ban lãnh đạo
Liên Xô bắt đầu chứng tỏ họ sẵn lòng cho phép các thay đổi chính sách,
có tên “Đường lối Mới”. Đường lối này do Georgi Malenkov, người kế vị
gần nhất của Stalin mà sau đó bị Khrushchev thay thế, khởi xướng (ngay
từ mùa xuân 1953, cùng sự hỗ trợ của Lavrentiy Beria, theo nghiên cứu
của Geoffrey và Nigel Swain.) [7] Ở trong nước, Đường lối Mới
bao gồm việc bớt nhấn mạnh đến công nghiệp nặng vốn được Stalin ưa
thích, và thay vào đó, chú ý hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
thông qua việc bớt kiểm soát giá thực phẩm và quần áo, và giảm bớt đàn
áp chính trị. Trên trường quốc tế, Đường lối Mới bao gồm việc phục hồi
cho Tito của Nam Tư – người đã bị Stalin trục xuất khỏi thế giới cộng
sản năm 1948 – sau chuyến thăm bất ngờ của Khrushchev đến Belgrade tháng
Năm 1955. So với cơn bão mà Đại hội 20 sau đó tạo nên, thì Đường lối
Mới này có vẻ chỉ là cơn gió thoảng, nhưng quả thực nó “làm tan băng”
mảnh đất đã bị đông cứng trong chính thể Stalin cứng nhắc. Các đảng Đông
Âu đã phản ứng theo Moskva – phần nào được Kremlin khuyến khích – bằng
việc đưa ra những thay đổi tương tự trong lĩnh vực đảng, kinh tế, xã
hội.
Để có thêm tự chủ trước Moskva, một số nước Đông Âu quay sang Bắc
Kinh tìm cảm hứng với cái cớ rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển
đổi chủ nghĩa xã hội (từ “Dân chủ Mới” sang chủ nghĩa xã hội) tương tự
như Đông Âu, trong khi Liên Xô đã tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa
xã hội cao hơn. Ví dụ, ở Đông Đức, nước đầu tiên ở Đông Âu thực thi một
số chính sách Đường lối Mới ngay từ 1953, Hội nghị lần thứ 25 của Đảng
Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức thông qua nghị quyết ngày
1-11-1955, chuẩn thuận phương pháp của Trung Quốc trong vấn đề quốc hữu
hoá các doanh nghiệp lớn của tư nhân còn lại bằng cách đề nghị bồi
thường 50% cho những người chủ cũ [8] . Việc mua, thay vì
tịch thu, phương tiện sản xuất và cho phép chủ cũ tham gia quản lý là
chính sách của Mao nhằm làm cuộc chuyển đổi diễn ra êm thắm; nó rất khác
với mô hình quốc hữu hoá chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Đông Đức quan
tâm đến phương thức quốc hữu hoá ôn hoà hơn của Trung Quốc, và mối quan
tâm này tiếp tục tăng trong năm 1956 và được phản ánh trong các bài báo,
phúc trình trên báo và tạp chí của Đảng.
Neue Zeit, một báo của Đảng, ngày 13-6-1956 đã in lại một
bài nhan đề “Vì sao các nhà tư bản của chúng ta hoan nghênh chủ nghĩa xã
hội”, do chủ tịch Hội Nông Thương Trung Quốc viết và đăng lần đầu trên People’s China, một
tờ báo tuyên truyền đối ngoại, để trả lời cho câu hỏi của các chủ doanh
nghiệp tư nhân ở Đông Đức. Trong ấn bản tháng Chín, tờ báo lý luậnEinheit có
đăng bài báo Trung Quốc nhan đề “Giai đoạn mới của sự chuyển hoá công
nghiệp và thương mại tư bản ở Trung Quốc.” Khi Walter Ulbricht, Tổng Bí
thư của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức, báo cáo cho Đảng
về chuyến đi thăm Bắc Kinh dự Đại hội Tám của Đảng Cộng sản Trung Quốc
tháng Chín 1956, ông nhấn mạnh đến liên minh giữa người cộng sản Trung
Quốc với cái gọi là “tư sản dân tộc.” [9]
Ở Hungary, ảnh hưởng Trung Quốc được phản ánh trong ý thức hệ của
những người cộng sản dân tộc mới nổi lên của Hungary, đặc biệt thể hiện
qua việc Imre Nagy ngưỡng mộ “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung
Quốc. Nagy, người được đưa lên làm Thủ tướng từ cuối 1953 đến 1955, đề
đạt đường lối cải cách bao gồm việc giảm nhẹ nhịp độ công nghiệp hoá,
cho phép nông dân rời bỏ nông trường tập thể và giảm bớt sự khắc nghiệt
của công an. Vì lẽ này ông bị những người thân Stalin do Mátyás Rakosi
dẫn đầu loại bỏ vào tháng Ba 1955. Nhưng sau khi bị buộc về hưu non,
Nagy cảm nhận trận bão chính trị đang tới và viết một luận đề dài nhan
đề “Bảo vệ Con đường Mới” vào cuối năm 1955 và đầu 1956. Bài này được in
thành sách ở phương Tây với nhan đề Về chủ nghĩa cộng sản, trong đó bốn vấn đề lớn được đề cập: công nghiệp, nông nghiệp, đàn áp chính trị và chính sách ngoại giao.
Trong chương về chính sách ngoại giao, “Năm nguyên tắc cùng chung
sống” của Trung Quốc trở thành nền tảng lý thuyết cho Nagy khi ông bảo
vệ chủ quyền của Hungary và độc lập trước Liên Xô. “Năm nguyên tắc cùng
chung sống” bao gồm tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau,
không xâm lấn, không can thiệp chuyện nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi,
và chung sống hoà bình [10] . Trung Quốc lần đầu tiên nêu các
nguyên tắc này trong một tuyên bố chung với Ấn Độ năm 1954. Rồi vào năm
1955, tại Hội nghị Bandung của các nước Á và Phi, Chu Ân Lai chính thức
đề đạt chúng với các nước như nguyên tắc bang giao quốc tế đối lập với
chủ nghĩa thực dân. Các tuyên bố chính thức của Trung Quốc liên quan năm
nguyên tắc này thường thòng thêm một cụm từ hạn chế, “giữa các nước có
hệ thống xã hội khác nhau”, nhằm giảm nhẹ lo ngại của các nước phi cộng
sản châu Á về xuất khẩu cách mạng của Trung Quốc, nhưng không nói rõ
liệu chúng có áp dụng cho “các nước có cùng chế độ xã hội” hay không.
Nhan đề của chương đối ngoại trong bài của Nagy là “Năm nguyên tắc cơ
bản của quan hệ quốc tế và câu hỏi về chính sách đối ngoại của chúng
ta”. Tác giả không chỉ dùng “Năm nguyên tắc” làm luận đề chính mà còn
tuyên bố chúng phải “mở rộng cho quan hệ giữa các nước trong khối xã hội
chủ nghĩa và dân chủ”. [11] Bài của Nagy được phổ biến trong
những người cộng sản phản kháng, và vào mùa Xuân 1956, Nagy chuyển một
bản cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và một bản cho Yuri Vladimirovich
Andropov, đại sứ Nga ở Budapest [12] . Quả là một trớ trêu bi
thương khi chưa đầy một năm sau đó, mộng tưởng của Nagy về việc áp dụng
“Năm nguyên tắc” cho quan hệ Hung – Nga và ảo tưởng về cảm tình của
Trung Quốc với Hungary đã vỡ tan, khi Bắc Kinh thúc giục Moskva can
thiệp và Nhật báo Nhân dân là tờ báo đầu tiên ca ngợi cuộc đàn áp [13] .
Nhận thức đầy đủ về sự hấp dẫn của các chính sách của mình và căng
thẳng giữa Đông Âu và Liên Xô, Trung Quốc rất quan tâm đến những khó
khăn của lãnh đạo Liên Xô ở Đông Âu và trong một số trường hợp còn giữ
liên lạc với những nhân vật cải tổ mới nổi. Ví dụ, theo Janos Radvanyi,
một viên chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao Hungary phụ trách châu Á và có
quan hệ thân cận với đại sứ Trung Quốc ở Budapest, sứ quán Trung Quốc đã
thiết lập một mạng lưới thông tin hiệu quả bên trong chính phủ và Đảng
Cộng sản Hungary. Sứ quán thậm chí có tiếng là “địa điểm ngoại giao hiểu
biết nhất” ở thủ đô. Thông qua mạng lưới này, vị đại sứ Trung Quốc, Hác
Đức Thanh, biết Nagy đang viết bài, và khi bài này được gửi cho Ban
Chấp hành Trung ương, thì ông Hao có được một bản nhờ một người bạn
Hungary làm trong ban thư ký tại trụ sở Đảng. Trong khi sứ quán Liên Xô
hay mời những công dân gương mẫu, thì ông Hao thích tiếp đãi các nhà
văn, nghệ sĩ, kinh tế gia và phóng viên Hungary – một số trong đó không
được chính quyền tin tưởng. Vị đại sứ cũng đi lại khắp nơi trong nước và
có thông tin từ cán bộ địa phương về không khí thay đổi sau cái chết
của Stalin. Tuỳ viên văn hoá của Trung Quốc, nói giỏi tiếng Hungary,
cũng duy trì liên hệ thân mật với các trí thức Hungary, trong khi các
phóng viên của Tân Hoa xã và du học sinh Trung Quốc báo cáo cho sứ quán về hoạt động của Câu lạc bộ Petofi, một trung tâm tập hợp những người phản kháng.
Sau Đại hội 20 của Liên Xô, việc phê phán chính sách của Stalin được
hé lộ, và Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn ở Đông Âu, và các hoạt động
truyền bá ảnh hưởng của Trung Quốc tại đó trở nên mạnh bạo hơn. Với việc
công bố diễn văn của Lục Định Nhất, Trưởng ban Tuyên huấn của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, mang tên “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, vào
tháng Năm 1956 và đăng trên Nhân dân Nhật báo ngày 13-6, Trung
Quốc mở đầu sự giải phóng cho trí thức với mục đích giải toả sức ép
trong nước về ngắn hạn, và với mục tiêu dài hạn là cho phép một chút cởi
mở và phê phán bên trong chính quyền để giành ủng hộ và phát hiện sai
lầm. Chính sách Trăm hoa nhanh chóng trở thành trọng tâm thu hút tại
Đông Âu. Vào tháng Chín, Đại hội Tám ở Trung Quốc khai mạc, và toàn bộ
các đảng cộng sản ở Đông Âu gửi đại biểu tới Bắc Kinh. Sự kiện này được
Bắc Kinh sử dụng vào đúng khoảnh khắc quan trọng ấy để giới thiệu con
đường riêng tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng quan hệ với thế hệ hậu
Stalin trong các lãnh đạo Đông Âu. Ví dụ, Janos Kadar, trưởng phái đoàn
Hungary, người từng bị Stalin hạ bệ nhưng được phục hồi năm 1954, rất
được ưa thích trong Đảng ở Hungary vì quan điểm chống Stalin. Các nhà
lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm tới vị lãnh đạo mới nổi này, và Mao
Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, tất cả đều có cuộc trò chuyện
dài với ông. Vào ngày 1-10, Kadar một lần nữa đại diện cho Hungary tại
lễ ăn mừng Quốc khánh Trung Quốc tại Bắc Kinh [14] .
Một điểm về Chính sách Trăm hoa chưa được chú ý đầy đủ là sự thể hiện
ngôn từ (trực tiếp của Mao và rất tiêu biểu cho phong cách của ông) đã
tạo nên ấn tượng sai lầm rằng có sự dung dưỡng cho nhiều, tuy chưa phải
tất cả, ý kiến khác biệt; ấn tượng này đặc biệt có ở những ai không hiểu
về quá khứ đàn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như cuộc chỉnh huấn
Diên An thập niên 1940 và chiến dịch cải tạo tư tưởng đầu thập niên
1950. Ấn tượng này đã xảy ra khi Chính sách Trăm hoa khơi dậy cảm tình
với Trung Quốc ở Đông Âu, nơi con người phấn khích trước khẩu hiệu nhưng
không biết nhiều về lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc và không có
dịp xem kỹ nội dung của những tư liệu giới thiệu chính sách mới của
Trung Quốc. Tại Hungary, đại sứ Trung Quốc chộp cơ hội củng cố tình cảm
ủng hộ Trung Quốc bằng việc cung cấp thêm thông tin cho trí thức và sinh
viên Hungary, và thậm chí ông còn quảng bá về Đại hội Tám thông qua
cung cấp thông tin cho báo chí và đài phát thanh Hungary. Kết quả là
truyền thông Hungary dành nhiều chỗ cho Đại hội Tám, lại càng củng cố
thêm cảm tình dành cho Trung Quốc. Nhiều trí thức cấp tiến Hungary tin
rằng chính sách này đích thực phản ánh ý định của những người cộng sản
Trung Quốc. Trong lúc đó, với việc phục hồi và đưa Nagy lên làm Thủ
tướng, “Năm nguyên tắc” của Trung Quốc được dùng để chống lại “chủ nghĩa
nước lớn” của Liên Xô – một cụm từ cũng do Trung Quốc nặn ra. Ảo tưởng
của Hungary về Trung Quốc kéo dài đến phút cuối cùng, khi tờ báo của các
nhà văn cách mạng, Irodalmi Ujsag, tuyên bố ngày 2-11 (hai
ngày sau khi Trung Quốc thúc giục Khrushchev đè bẹp cuộc nổi dậy
Hungary) rằng “Phương Tây và phương Đông sát cánh với chúng ta. Mỹ đã
tuyên bố niềm tin vào chính nghĩa của chúng ta cũng rõ ràng như các quốc
gia hùng mạnh như Trung Quốc và Ấn Độ.”[15]
Đáng chú ý là sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt, vai trò giảm
kiểm soát và dung thứ cho phản kháng của Trung Quốc lại càng trở nên nổi
bật trong những nhà cải cách Đông Âu. Trái với không khí chung ở Liên
Xô và Đông Âu sau sự biến Hungary, Trung Quốc vẫn tiếp tục đường hướng
khai phóng mà họ khởi sự từ tháng Năm 1956. Chính sách Trăm hoa không bị
ngưng, và vào tháng Hai 1957, Mao còn bổ sung thêm với bài diển văn nổi
tiếng “Bàn về mâu thuẫn”, thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn trong các
nước xã hội chủ nghĩa và như vậy tức là đã chấp nhận một mức độ bất bình
nhất định, hay thậm chí một sự đối lập ôn hoà trước các chính sách của
chính phủ. Vào tháng Tư, Trung Quốc đẩy mạnh nỗ lực thu hút sự phê phán
thông qua chiến dịch “chỉnh huấn”, kéo dài cho đến đầu mùa hè, khi Trung
Quốc mở cuộc phản kích chống lại các trí thức phê phán thông qua chiến
dịch chống hữu khuynh. Hiện vẫn chưa rõ khi nào thì Mao quyết định dùng
chiến dịch Trăm hoa và Chỉnh huấn để “dụ rắn ra khỏi hang”, tuy một số
người cho rằng đó có thể là ngay sau cuộc khủng hoảng Hungary [16] .
Dù ý định thực của Mao là gì, thì đối với các trí thức Đông Âu đã
chịu cảnh lạnh giá sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị đàn áp, việc Trung
Quốc duy trì giai đoạn mở rộng tự do cũng là ngọn đèn trong đêm đen và
là hy vọng duy nhất để níu giữ sự tự do họ có được sau Đại hội 20 của
Liên Xô. Họ vui mừng với quan niệm của Mao về Trăm hoa Đua nở và mâu
thuẫn ôn hoà, bởi vì các quan niệm này hàm ý phê phán việc gán cho mọi
sự phê phán cái mác “tư sản”, “tư bản”, hay “đế quốc” và vì thế, chúng
không chỉ đặt nghi ngờ về việc chặn họng các tiếng nói chống đối mà còn
hàm ý là những khủng hoảng trong nước có thể là do các chính sách của
chính quyền và sự can thiệp của ngoại quốc. Người Đông Âu không phải là
hoàn toàn hiểu nhầm thông điệp của Trung Quốc. Trung Quốc xem khủng
hoảng Ba Lan – Hungary chính là ví dụ điển hình của các vấn đề mà sự đàn
áp các tiếng nói đối kháng đã tạo ra, đặc biệt trong nửa đầu năm 1957,
khi Trung Quốc hoàn toàn tin vào sự ủng hộ mà dân chúng dành cho chính
thể [17] .
Chính trong bối cảnh này, nhiều nhân vật chống Stalin ở Đông Âu “muốn
nhìn thấy ở Bắc Kinh một thánh địa của chủ nghĩa xét lại” (nghĩa là
chống lại Stalin) [18] . Tại Đông Đức, những người cộng sản
cải cách, được dẫn dắt bởi những người như Karl Schirdewan, Paul Wandel,
và Jürgen Kuczynski, đã ca ngợi Trung Quốc vì đã phân biệt mâu thuẫn
“thù địch” và mâu thuẫn “ôn hoà”, nghĩa là khuyến khích sự phê bình.
Schirdewan nói, Trung Quốc biết dùng Đại hội 20 theo cách “sáng tạo”.
Kuczynski công khai cổ võ cho Chính sách Trăm hoa: “Hãy để hoa nở: mỗi
loại hoa lại có kiểu riêng biệt – mọi loại hoa đều tô điểm cho thế giới
bằng muôn ngàn sắc màu, hương thơm, hình dáng. Đó chính là thái độ tiến
bộ đích thực đối với khoa học gia, nhà văn và nghệ sĩ.” [19]
Các hoạt động và diễn văn của họ buộc phe bảo thủ của Ulbricht (tuy ông
này từng có lúc tỏ ra quan tâm đến việc quốc hữu hoá ôn hoà của Trung
Quốc) phải tham gia tranh luận nhiều tháng trong năm 1957. Một trả lời
của Ulbricht là “vấn đề chính của chúng ta không phải là ‘kêu gọi mọi
loại hoa cùng nở rộ’ mà là phải tìm cho ra đúng loại hoa phù hợp, chỉ
trồng những gì mới và hữu ích, chứ không được dung dưỡng hạt giống độc
hại chỉ vì chúng cũng là hoa.” [20]
Tại Ba Lan, W. Gomulka, bí thư thứ nhất của Đảng, người tìm cách duy
trì quan điểm trung dung giữa phe thân Stalin và phe cải cách, nói rằng
Đảng của ông quan sát Trung Quốc “với sự cảm thông sâu sắc.” [21]
Ông ca ngợi Trung Quốc vì “sự táo bạo” đóng góp vào “việc dạy sáng tạo
chủ nghĩa Marx – Lenin” nhờ việc giới thiệu “các phương pháp mới để giải
quyết mâu thuẫn ôn hoà” và xu hướng “Trăm hoa Đua nở” mà “trước đây
chưa từng biết tới trong công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở các nước
khác.” Bình luận thân Trung Quốc của Gomulka là vào ngày 15-5, khi ông
phát biểu tại phiên họp toàn thể lần thứ chín của Đảng. Một tuần trước
đó, một tạp chí Ba Lan đăng một bài báo, viết rằng “Mâu thuẫn trong con
người – bất chấp khác biệt giữa các quốc gia – cũng xuất hiện ở nước ta.
Vượt qua mâu thuẫn thông qua thuyết phục và thảo luận thì đòi hỏi một
cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, cải thiện bộ máy nhà nước và một
chính sách mềm dẻo với các đồng minh chính trị và giai cấp.” Bài báo
cũng kêu gọi đem trồng “những bông hoa Trung Quốc.” [22]
Những kêu gọi tương tự cũng được nghe ở các nước Đông Âu khác vào
cuối mùa Xuân 1957, khi chiến dịch “chỉnh huấn” đạt cao trào ở Trung
Quốc. Đáp lại lời kêu gọi này, một tạp chí của Hungary cảnh báo ngày
26-5:
“Trong số các phong trào Trung Quốc lan toả trong địa hạt văn chương,
nghệ thuật, khoa học… thì ‘Trăm hoa Đua nở’ lan toả mạnh nhất ở
Hungary… Trong giai đoạn đầu tiên nó bị công kích vì đưa tới sự giải
phóng đời sống trí thức và giảm sự hà khắc của chủ nghĩa Marx… Đồng chí
Mao Trạch Đông, người quen thuộc với trí thức Trung Quốc và biết đa số
họ trung thành với chủ nghĩa xã hội, đã bảo vệ khẩu hiệu ‘Trăm hoa”… sau
kinh nghiệm buồn của quá khứ có lẽ chúng ta cần thận trọng trước ý
tưởng thực thi các biện pháp của Trung Quốc ở Hungary.”[23]
Ngay từ khi Trung Quốc mới bắt đầu dung dưỡng cho nhiều loại “hoa”,
Moskva đã quan sát với sự nghi ngại, không đồng tình và thậm chí lo
lắng, đặc biệt sau cuộc nổi dậy Hungary. Theo các nguồn Trung Quốc gần
đây mới công bố, khi Trung Quốc quyết định loan báo Chính sách Trăm hoa,
họ gửi Lục Định Nhất, người đầu tiên nói về chính sách, đến thông báo
cho Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Việc này là cách hành xử
thông thường, tức là Moskva và Bắc Kinh cần thông báo cho nhau trước về
các thay đổi chính sách quan trọng – mặc dù Moskva đã không làm thế
trong trường hợp “Báo cáo mật” của Khrushchev, làm Bắc Kinh giận dữ. Sau
khi Lục Định Nhất giải thích cho Yudin, đại sứ Liên Xô đưa cho ông Lục
một bài báo của Lenin liên quan đến chủ đề này nhưng chống lại sự dung
thứ. Trên đường từ sứ quán về nhà, Lục thở dài với Yu Guangyuan, thư ký
riêng, rằng “Sự giáo điều của người Nga thật quá sâu!” [24]Sau
khủng hoảng Ba Lan – Hungary, việc Trung Quốc vẫn đi theo xu hướng mở
rộng tự do làm Moskva càng thêm bất an. Vào tháng Tư 1957, Yefremovich
Voroshilov, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tối cao Liên Xô, thăm Trung Quốc.
Theo Li Yueran, người phiên dịch tiếng Nga cho Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc từ 1949 đến 1964, Voroshilov bày tỏ lo ngại về
Chính sách Trăm hoa với Mao ít nhất hai lần. Voroshilov nói ông không
hiểu vì sao các ý kiến chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội lại được phép
đăng lên báo. Ông cảnh báo Mao về nguy cơ của sự nới rộng, và lấy
Hungary làm ví dụ. Mao trấn an rằng Trung Quốc không phải là Hungary và
người cộng sản Trung Quốc không muốn “hoa và cỏ mọc chung trong nhà”.
Ông nói, ông tự tin là nếu kẻ thù muốn lợi dụng để lật đổ Đảng Cộng sản
Trung Quốc, chúng sẽ chỉ “để lộ mình mà thôi”. [25]
Thái độ điển hình của Liên Xô trước các chính sách cởi trói của Trung
Quốc, và đặc biệt trước sự rùm beng trên báo chí Trung Quốc về chính
sách Trăm hoa, được thể hiện qua lời nói của Khrushchev. Khrushchev rất
khó chịu trước việc người Trung Quốc “giỏi tìm ra những cụm từ hấp dẫn”
và rằng họ “biết cách đưa ra khẩu hiệu thích hợp vào lúc thích hợp”. [26] Nhớ lại sự bối rối gây nên bởi khẩu hiệu của Trung Quốc ở Liên Xô, ông nói:
“Các vị tuyên huấn của chúng tôi hỏi tôi cách thức phản ứng. ‘Nhân
dân ta đọc báo về chiến dịch mới này ở Trung Quốc’, họ bảo. ‘Cái trò
Trăm hoa này đang len lỏi vào xã hội Liên Xô’. Chúng tôi hướng dẫn cho
các tổng biên tập bỏ đi chủ đề Trăm hoa, không đụng đến nữa. Quan điểm
của chúng tôi là Trăm hoa là khẩu hiệu để tiêu thụ trong Trung Quốc
thôi, và nó không áp dụng ở Liên Xô. Chúng tôi tránh phê phán trực diện
chiến dịch nhưng cũng không cổ vũ… Bất kì người nông dân nào cũng biết
có những khóm hoa có thể hái, nhưng có những cái phải bỏ. Một số cây ra
quả đắng chát, có hại cho sức khoẻ, và có những cây mọc loạn lên và bóp
nghẹt đời sống các hạt mầm quanh chúng.” [27]
Khrushchev đã từng gặp rắc rối vì chiến dịch chống Stalin, vì thế ông
không thể cho phép có thêm chiến dịch cởi trói, mặc dù ông hiểu là Mao
“muốn kích thích nhân dân bày tỏ tư tưởng” để phát hiện những người ông
xem là “có hại”.
Khrushchev cũng bác bỏ luận điểm của Mao về mâu thuẫn trong nhân dân ở
các nước xã hội chủ nghĩa, một luận điểm được tán thưởng ở Đông Âu.
Ngày 2-6-1957, trong cao trào chiến dịch chỉnh huấn và ngay trước chiến
dịch chống phái hữu, Khrushchev trả lời phỏng vấn của đài Mỹ CBS tại
Moskva. Khi được hỏi về thái độ đối với tuyên ngôn gần đây của Bắc Kinh
rằng tại các nước xã hội chủ nghĩa “có thể tồn tại mâu thuẫn giữa quần
chúng và lãnh đạo”, Khrushchev trả lời nhát gừng: “Chúng tôi tin rằng
chúng tôi không có thứ mâu thuẫn như thế.” [28]
Toàn bộ các chương hồi này chứng tỏ một ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc
ở Đông Âu và ngay cả ở Liên Xô trong năm 1957. Sự bất đồng và cảnh báo
của Moskva và nỗ lực ngăn trở sự cởi trói ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy
hai lo lắng lớn. Thứ nhất là sự lo ngại về ổn định chính trị ở các nước
vệ tinh của Liên Xô; thứ hai là sự cảnh giác của Liên Xô trước thách
thức của Trung Quốc đối với vai trò lãnh đạo trong khối cộng sản, đặc
biệt khi mà vị trí của Moskva đã bị suy yếu sau quá trình giải ảo Stalin
và khủng hoảng Ba Lan – Hungary.
Cuối cùng và cũng trớ trêu, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng được phản
ánh từ phía ngược lại. Khi Mao ra dấu về chiến dịch chống phái hữu đầu
tháng Sáu 1957, những người bảo thủ ở Đông Âu cảm thấy nhẹ nhõm. Một số
người có phản ứng nhanh chóng, thậm chí có hành động tương tự. Ví dụ, ở
Đông Âu phóng viên báo Đảng Neues Deutschland tường thuật từ
Bắc Kinh ngày 12-7: “Trọng tâm chính hiện nay là nhắm vào ‘phái hữu’…
Nay những người cổ vũ cho ‘phái hữu’ đang bị lột trần”. [29]
Vài tháng sau, đầu năm 1958, Ulbricht mở chiến dịch chống “xét lại”
trong Đảng với việc loại bỏ Karl Schirdewan (thành viên Bộ Chính trị),
Fred Oelßner (thành viên Bộ Chính trị và nhà tư tưởng lâu năm của Đảng),
Ernst Wollweber (Thứ trưởng An ninh), và Paul Wandel (một kinh tế gia
Marxist có ảnh hưởng). Họ đều từng có thiện cảm và muốn áp dụng các
chính sách của Trung Quốc, đặc biệt là Chính sách Trăm hoa. Chiến dịch ở
Đông Đức cũng trừng phạt nhiều trí thức đọc nhầm thông điệp từ Trung
Quốc và đã để lộ mình, giống như những nhân vật phái hữu ở Trung Quốc bị
sập bẫy của Mao.
(Còn phần 2)
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
————
[1]Ghi chú của talawas: Do sự chậm trễ từ phía chúng tôi,
bản dịch của Lê Quỳnh đã được hoàn thành từ lâu, nay mới có thể công bố
trên talawas. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả và dịch giả.
[2]Ví dụ, các sách tiếng Anh The Rise and Fall of Communism (tác giả Richard H. Hudelson, New York: Westview, 1993), The Communist Movement Since 1945 (Willie Thompson, Oxford: Blackwell, 1998), Eastern Europe Since 1945 (Geoffrey Swain và Nigel Swain, New York: St. Martin’s, 1998) và The Rise and Fall of Communism in Eastern Europe (Ben
Fowkes, New York: St. Martin’s, 1993) không nhắc đến vai trò của Trung
Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin và giải quyết khủng hoảng Ba Lan –
Hungary trong khi vẫn bám vào cách diễn giải nhấn mạnh đến Moskva. Việt
Nam lại càng không nằm trong khuôn khổ phân tích lấy Moskva làm chính,
và nhiều sử gia cộng sản thậm chí không biết tới trường hợp Việt Nam
trong giai đoạn hạ bệ Stalin. Một tác giả viết rằng “Rõ ràng không đảng
nào ở Nam Á hay Đông Nam Á bị rối loạn vì sự kiện hạ bệ Stalin, có lẽ vì
cách nhìn của họ, vì là các tổ chức chủ yếu dựa vào nông dân và không
dính đến Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế, ít gắn bó hơn với thái độ của
Liên Xô hoặc sự quan trọng của ký ức về Stalin so với các đảng Đông
Âu…” Phát ngôn này rõ ràng tách Việt Nam khỏi cuộc khủng hoảng trong thế
giới cộng sản năm 1956-1957 chỉ vì cách mạng Việt Nam dựa vào nông dân
và ít chịu ảnh hưởng hơn từ Moskva. Willie Thompson, The Communist Movement Since 1945, trang 77.
[3]Một ví dụ trong các tác phẩm ban đầu mang quan điểm này
là “China and the Communist ‘Thaw” của G. F. Hudson. Đây là lời bạt cho
quyển The Hundred Flowers Campaign and the Chinese Intellectuals của Roderick Macfarquhar (New York: Praeger, 1960), trang 299. Một ví dụ gần đây của quan điểm này là quyển Mao’s China and the Cold War của Jian Chen (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), trang 145.
[4]Phần trên chủ yếu dựa vào bài “Sự biến Ba Lan / Hungary và chuyến đi của Lưu Thiếu Kỳ đến Liên Xô” của Shi Zhe, Bai Nian Chao 2
(1997): 11-17. Shi Zhe là thư ký và phiên dịch tiếng Nga cho Mao vào
cuối thập niên 1940 và 1950. Ông làm phiên dịch cho phái đoàn Trung Quốc
đến Moskva hồi tháng 10-1956. Xem thêm cuốn Mao’s China and the Cold War của Jian Chen để có ghi chép chi tiết hơn về chủ đề.
[5]N. S. Khrushchev, hồi ký Khrushchev Remembers (Boston: 1970), trang 418
[6]Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson, Soviet Foreign Policy Since World War II (New York: Pergamon Press, 1984), trang 219
[7]Geoffrey Swain và Nigel Swain, Eastern Europe Since 1945, trang 71–72
[8]William E. Griffith, chủ biên, Communism in Europe: Continuity, Change, and the Sino-Soviet Dispute, vol. 2 (Boston: MIT Press, 1966), trang 101
[9]Như trên
[10]Robert V. Daniels, chủ biên, A Documentary History of Communism (New York: Random House, 1960), trang 346–349
[11]Imre Nagy, On Communism (New York: Praeger, 1957), trang 23
[12]Janos Radvanyi, “The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution”, trong quyển Hungary and Superpowers (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1972), trang 23. Bài viết này ban đầu in trong tạp chí China Quarterly 43
(tháng Bảy – Chín 1970): 121-129, dưới nhan đề “The Hungarian
Revolution and the Hundred Flowers Campaign”, nhưng trước khi đưa vào
sách, tác giả có bổ sung và sửa chữa. Tác giả là một viên chức ngoại
giao cao cấp tại Bộ Ngoại giao Hungary giữa thập niên 1950 và trưởng
phân ban châu Á của bộ này trong các năm 1958-1959.
[13]Ngày 1-11-1956, bình luận trên Nhân dân Nhật báo nói
quan hệ giữa các nước XHCN cần được thiết lập trên nền tảng của “Năm
nguyên tắc”. Nhưng ba ngày sau, tờ báo này lại ca ngợi việc Liên Xô dập
tắt cuộc nổi loạn của Hungary.
[14]Janos Radvanyi, “The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution”, trang 23–24
[15]Griffith, chủ biên, Communism in Europe, 1: 242
[16]Li Shenzi, “Chủ tịch Mao quyết định dụ rắn ra khỏi hang lúc nào?”, Yenhuang chunqiu, tháng
Giêng 1999, trang 5-14. Li là cố vấn về quan hệ quốc tế cho Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thập niên 1950 và 1960, và cuối
thập niên 1990 trở thành nhân vật hàng đầu trong giới trí thức cởi mở
của Trung Quốc. Quan điểm của ông về quyết định của Mao trong chiến dịch
chống phái hữu rất có ảnh hưởng.
[17]Ví dụ, trong một cuộc họp với các bí thư tỉnh ủy ngày
27-1, Mao nói các chính sách đàn áp của Rákosi (như không cho biểu tình,
không nộp đơn thỉnh nguyện, không chỉ trích…) đã gây ra khủng hoảng ở
Hungary. Mao Trạch Đông, Tuyển tập (Beijing: People’s
Publisher, 1980), 5: 354. Hai tháng sau, trong hội thảo của cục tuyên
huấn, cục trưởng Lục Định Nhất, nhắc tên của Gero, Tổng Bí thư đảng của
Hungary năm 1956, như ví dụ của tình hình đất nước nguy ngập vì đàn áp ý
kiến khác biệt. Lục Định Nhất, Tuyển tập Lục Định Nhất (Beijing: People’s Publisher, 1992), trang 556.
[18]Griffith, Communism in Europe, 1: 103
[19]Như trên, 1: 104
[20]Như trên
[21]Quyển The Warsaw Heresy của S. L. Shneiderman
(New York: Horizon Press, 1959) là một mô tả minh hoạ về chính sách
thận trọng của Gomulka sau cuộc khủng hoảng tháng 10 ở Ba Lan – Hungary.
[22]G. F. Hudson, “China and the Communist ‘Thaw'”, trang 30
[23]Như trên, trang 104
[24]Chen Qingquan, “Làm sao Lục Định Nhất lại cổ vũ chính sách ‘Trăm hoa’?”, Yenhuang chunqiu, tháng Chín 2000, trang 6
[25]Li Yueran, The Leaders of the New China on the Stage of Foreign Affairs (Beijing: People’s Liberation Army Press, 1990), trang 127–128
[26]Nikita Khrushchev, Khrushchev Remembers (Boston: Little, Brown, 1974), trang 275
[27]Như trên, trang 271
[28]Hudson, “China and the Communist ‘Thaw,'” trang 307
[29]Griffith, Communism in Europe, 1: 78–79, 105.
Thursday, October 1, 2015
Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kì hậu Stalin (P1)


Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment