Nguồn: Ricardo Hausmann, “Does Capitalism Cause Poverty?”, Project Syndicate, 21/08/2015.
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Chủ nghĩa tư bản bị đổ lỗi cho nhiều vấn đề ngày nay: nghèo đói, bất
bình đẳng, thất nghiệp, thậm chí cả sự ấm lên toàn cầu. Như Giáo hoàng
Francis đã nói trong một bài phát biểu
gần đây ở Bolivia: “Chúng ta không thể chịu đựng hệ thống này được nữa:
nông dân không thể chịu nổi nó, công nhân không thể chịu nổi nó, các
cộng đồng không thể chịu nổi nó, các dân tộc không thể chịu nổi nó. Tự
thân trái đất – hay Đất mẹ, như Thánh Francis từng nói – cũng không còn
chịu nổi nó.”
Nhưng liệu vấn đề khiến Đức Francis bận tâm có phải là hậu quả của những gì mà Ngài gọi là “chủ nghĩa tư bản không kiểm soát”
hay không? Hay bởi sự thất bại đáng ngạc nhiên của chủ nghĩa tư bản khi
cố gắng thực hiện những gì ta mong đợi? Một chương trình nghị sự nhằm
thúc đẩy công bằng xã hội nên dựa vào chủ nghĩa tư bản được kiểm soát
hay dựa vào việc xóa bỏ các rào cản ngăn chặn nó mở rộng?
Câu trả lời cho vấn đề ở Mỹ Latinh, châu Phi, Trung Đông, và châu Á
rõ ràng là phương án thứ hai. Để giải thích điều này, ta nên nhớ lại
cách mà Karl Marx hình dung tương lai.
Đối với Marx, vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản là tổ chức lại sản
xuất. Sẽ không còn các trang trại gia đình, các xưởng thủ công, hay
“đất nước của những tiểu thương,” như tên gọi mà Napoleon đã khinh bỉ
đặt cho nước Anh. Tất cả các hoạt động tiểu tư sản này sẽ bị san bằng
bởi những thứ tương ứng là Zara, Toyota, Airbus, hay Walmart ngày nay.
Clip: Khóa học ngắn về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Nguồn: Youtube.
Kết quả là, các phương tiện sản xuất sẽ không còn thuộc sở hữu của
người lao động, như ở trang trại gia đình hoặc xưởng thủ công, mà thuộc
về “tư bản.” Công nhân sẽ chỉ sở hữu sức lao động của bản thân, thứ mà
họ buộc phải đem trao đổi để lấy đồng lương ít ỏi. Dù sao thì họ cũng
còn may mắn hơn “đội quân dự bị của người thất nghiệp” – một nhóm người
nhàn rỗi, đủ lớn để khiến những kẻ khác lo sợ mất việc, nhưng đủ nhỏ để
không lãng phí phần giá trị thặng dư có được nếu họ làm việc.
Khi mọi tầng lớp xã hội trước đây đều biến thành giai cấp công nhân,
và mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay của nhóm nhỏ các chủ sở
hữu “tư bản,” một cuộc cách mạng vô sản sẽ dẫn nhân loại đến một thế
giới công bằng hoàn hảo: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu,” như
câu nói nổi tiếng của Marx.
Rõ ràng, nhà thơ và triết gia Paul Valéry đã đúng: “Tương lai, giống
như những thứ khác, sẽ không còn như nó đã từng.” Nhưng chúng ta không
nên chế giễu tiên đoán sai lầm nổi tiếng của Marx. Bởi suy cho cùng, như
nhà vật lý Niels Bohr từng gượng lưu ý, “Dự đoán là việc khó khăn, nhất
là dự đoán tương lai.”
Giờ thì chúng ta đều biết rằng khi vết mực đang dần khô trên Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
thì tiền lương ở châu Âu và Mỹ đã tăng dần trong suốt 160 năm, biến
người lao động trở thành một phần của tầng lớp trung lưu, với xe hơi,
các khoản thế chấp, lương hưu, và các lề thói tiểu tư sản. Các chính trị
gia ngày nay hứa hẹn tạo ra công ăn việc làm – nói cách khác là tạo
nhiều cơ hội để bị tư bản bóc lột – chứ không tìm cách tước đoạt các
phương tiện sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản có thể đạt được sự chuyển đổi này vì việc tổ chức
lại sản xuất khiến năng suất gia tăng nhanh chưa từng có. Phân công lao
động trong và giữa các doanh nghiệp, điều mà Adam Smith đã hình dung từ
năm 1776 như là động lực tăng trưởng, sẽ tạo sự chuyên môn hóa giữa các
cá nhân giúp cho toàn thể làm được nhiều hơn là từng bộ phận, và hình
thành nên một mạng lưới trao đổi và hợp tác ngày càng lan rộng.
Một tập đoàn hiện đại sẽ có các chuyên gia trong từng khâu sản xuất,
thiết kế, tiếp thị, bán hàng, tài chính, kế toán, quản lý nhân sự, hậu
cần, thuế, hợp đồng, vân vân. Mô hình sản xuất hiện đại không chỉ là sự
tích lũy nhà xưởng và phương tiện sản xuất của tư bản, và được vận hành
một cách máy móc bởi các công nhân có thể bị thay thế. Thay vào đó, nó
là một mạng lưới nhân lực được điều phối, gồm nhiều loại vốn nhân lực
khác nhau. Ở các nước phát triển, chủ nghĩa tư bản đã biến gần như tất
cả mọi người trở thành người làm công ăn lương, nhưng nó cũng giúp xóa
bỏ đói nghèo và làm cho họ trở nên giàu có hơn những gì Marx có thể
tưởng tượng.
Đây không phải là điều duy nhất Marx đã sai. Đáng ngạc nhiên hơn, tổ
chức lại sản xuất theo kiểu tư bản chủ nghĩa dần dần biến mất ở các nước
đang phát triển, khiến phần lớn lực lượng lao động nằm ngoài tầm kiểm
soát của chủ nghĩa tư bản. Các con số này thật đáng kinh ngạc. Trong khi
chỉ 1 trên 9 người ở Mỹ là lao động tự do thì tỉ lệ này ở Ấn Độ là 19
trên 20 người. Chưa tới 1/5 số người lao động ở Peru là đang làm việc
cho loại hình doanh nghiệp tư nhân mà Marx đã hình dung. Còn ở Mexico là
khoảng 1/3.
Ngay trong nội bộ các nước, mức độ giàu có cũng gắn liền với tỉ lệ
lao động trong các doanh nghiệp tư bản. Tại bang Nuevo León của Mexico,
2/3 số công nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân, trong khi ở
bang Chiapas con số này là 1/7. Vậy nên chẳng ngạc nhiên khi thu nhập
bình quân đầu người ở Nuevo León cao gấp 9 lần
so với ở Chiapas. Ở Colombia, thu nhập bình quân đầu người ở thủ đô
Bogota gấp 4 lần ở Maicao. Và chẳng có gì ngạc nhiên khi lao động tư bản
ở Bogota cũng cao hơn 6 lần.
Tại đất nước Bolivia nghèo khổ, Đức Francis đã chỉ trích “ham muốn
lợi nhuận bằng mọi giá, không quan tâm đến việc người dân bị đẩy ra lề
xã hội hay tàn phá thiên nhiên,” cùng với “sự tin tưởng thô thiển và
ngây thơ vào lòng tốt của những người nắm giữ quyền lực kinh tế và vào
cơ chế vận hành được thần thánh hóa của hệ thống kinh tế hiện hành.”
Nhưng lời giải thích cho sự thất bại của chủ nghĩa tư bản này là chưa
chính xác. Các công ty có lợi nhuận cao nhất trên thế giới đang không
bóc lột Bolivia. Họ đơn giản là không hiện diện ở đó, bởi họ thấy rằng
nơi này sẽ không sinh lợi nhuận. Vấn đề cơ bản của các nước đang phát
triển là chủ nghĩa tư bản đã không tổ chức lại sản xuất và không cung
cấp việc làm cho những nước hay những vùng nghèo nhất, đặt lực lượng lao
động tại đó bên ngoài phạm vi hoạt động của họ.
Như Rafael Di Tella và Robert MacCulloch đã chứng minh,
đặc trưng của các nước nghèo nhất thế giới không phải là sự tin tưởng
một cách ngây thơ vào chủ nghĩa tư bản, mà là hoàn toàn không tin tưởng,
dẫn đến sự can thiệp và điều tiết quá mức của chính phủ đối với doanh
nghiệp. Trong những điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản không phát triển
và nền kinh tế vẫn cứ nghèo nàn.
Đức Francis đã đúng khi tập trung sự chú ý vào tình cảnh của những
người nghèo nhất thế giới. Tuy nhiên, sự khốn khổ của họ không phải là
hậu quả của chủ nghĩa tư bản không kiểm soát, mà là của chủ nghĩa tư bản
bị kiểm soát một cách sai lầm.
Ricardo Hausmann là cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu
Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và là Giáo sư ngành
Thực hành Phát triển Kinh tế tại Đại học Harvard, nơi ông giữ chức Giám
đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế.
Copyright: Project Syndicate 2015 – Does Capitalism Cause Poverty?
Tuesday, October 13, 2015
Chủ nghĩa tư bản có gây nên nghèo đói hay không?


Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment