Douglas I. Bell | Trà Mi dịch
Những
biến động do chiến tranh gây ra ở Việt Nam làm nhiều người hoạt động
nhân đạo vỡ mộng và đã đặt câu hỏi về việc làm của mình khi sự hiện diện
của người Mỹ đã làm suy yếu mục tiêu và đối tượng của họ.
Trà Mi | Bài
tiểu luận dưới đây của Douglas Bell mô tả chi tiết hoạt động nhân đạo
của Đoàn Thanh niên Chí nguyện Quốc tế, International Voluntary Services
(IVS), một tổ chức dân sự Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Tổ chức nhân
đạo Hoa Kỳ này đã có mặt giúp người dân Việt Nam Cộng hoà từ 1957 đến
1971. Hẳn những thanh niên nam nữ tình nguyện đi làm việc ở những vùng
xâu xa tại một quốc gia xa vời vợi đều nghĩ rằng thiện chí có thể thay
đổi cả thế giới. Họ không thể tiên đoán được những vấn đề phức tạp
trong mối quan hệ giữa các tổ chức dân sự với chính phủ Mỹ cũng như
chính phủ địa phương; chắc chắn họ đã không thể hình dung rõ ràng vai
trò của những người đi làm công tác nhân đạo sẽ khó như thế nào trong
một quốc gia đang có chiến tranh. Trong bài, tác giả cũng phân tích
những lý do đưa đến thất bại của tổ chức dân sự độc lập nhưng không thể
giữ thế độc lập trong lúc hoạt động ở một quốc gia đang có chiến
tranh và đã phải và rút khỏi Việt Nam sau 14 năm hoạt động thiện nguyện.
Đây là một bài học lịch sử về quan hệ giữa các tổ chức dân sự và chính
phủ, và kinh nghiệm này cho thấy cho thấy giới hạn của xã hội dân sự
trong thời chiến.
Đọc thêm “The Fortunate Few, IVS Volunteers From Asia To The Andes” của Thierry J. Sagnier , NCNM Press (July 15, 2015).
* * * * * * * * * * * * *

Tình nguyện viên IVS giúp nông dân đặt máy bơm. (VNCH, 1961) Nguồn: LIFE/John Dominis
Ngày 19 tháng 9 năm 1967, bốn mươi chín
thành viên của International Voluntary Services (IVS) đã từ chức trong
một bức thư gửi cho Tổng thống Lyndon B. Johnson họ viết “Ở lại Việt Nam và lặng thinh là không đáp ứng được nhu cầu đầu tiên của người dân Việt – đó là hòa bình”[1]
Trong thư này, các thành viên IVS từ nhiệm cho rằng lợi ích riêng của
Hoa Kỳ ở Việt Nam, cả về chính trị lẫn quân sự, ngăn chận sự tự quyết và
xa lánh người dân Việt Nam vì họ bị một chính phủ bất hợp pháp cai trị,
và làm hại người dân Việt, họ đã thiệt mạng và bị thương vì các chiến
dịch quân sự. Các thành viên của IVS đề nghị năm giải pháp để mang lại
hòa bình cho Việt Nam và giúp người dân tạo dựng lại từ những năm bị
chiến tranh tàn phá: xuống thang cuộc chiến, ngừng sử dụng thuốc diệt
cỏ, ngừng ném bom miền Bắc, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam (MTGPMN), một tổ chức quan sự đối nghịch với chính phủ Việt
Nam [do cộng sản Bắc Việt dựng lên – TM], và chuyển vấn đề Việt Nam cho
một ủy ban hòa bình quốc tế có đề nghị mà Hoa Kỳ chấp nhận.[2] Dù bốn
mươi chín người tình nguyện làm việc nhân đạo đã chọn bảo vệ lý tưởng
của mình, sự đồng loạt từ chức và đề nghị của họ đã rơi vào khoảng
không.
Khi viết bức thư này, IVS đã có mặt tại
Việt Nam gần mười một năm với 120 người tình nguyện làm việc với người
dân Việt Nam, phần lớn trong các dự án nông nghiệp như chăn nuôi và cấy
trồng; nhưng họ còn làm nhiều hơn nữa gồm cả việc dạy tiếng Anh, chăm
sóc sức khỏe, và làm việc trong các dự án xây dựng cầu cống, kênh mương.
Tổ chức này được chính phủ Mỹ ca ngợi và nó đã trở thành mô hình cho tổ
chức Đoàn Hòa bình (Peace Corps) vì giới chức chính phủ đã nói rằng
“khả năng của các tình nguyện viên IVS bắc cầu thông cảm giữa dân Việt
Nam và người Mỹ tiêu biểu cho một đóng góp thực sự… cho những nỗ lực đi
tìm hòa bình của chúng ta.”[3] Được xem là một tổ chức quan trọng trong
sứ mệnh của Hoa Kỳ tại Việt Nam, IVS làm việc chặt chẽ với người dân
Việt Nam để xây dựng các mối quan hệ cá nhân ở cấp thôn làng. Tuy nhiên,
trong năm 1967, gần ba mươi phần trăm tình nguyện viên của IVS cho rằng
các chính sách của chính phủ Mỹ đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng
làm việc của họ với người Việt Nam.[4]
Tại sao một tổ chức mẫu mực được giới
chức chính phủ Mỹ ca ngợi lại quay sang chống lại chính phủ và từ chức
hàng loạt? Mối quan hệ giữa IVS và chính phủ Mỹ là gì? Nó đã phát triển
ra sao? Điều gì đã dẫn đến sự từ chức của nhân viên IVS? Sự từ chức hàng
loạt đã ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa IVS và chính phủ như thế nào?
Chủ đích của tiểu luận này nhằm trả lời những câu hỏi nêu trên vì chúng
sẽ cho thấy mối quan hệ giữa chính phủ Hoa Kỳ và các tổ chức nhân đạo
hoạt động tại Việt Nam, một khía cạnh thường bị bỏ qua trong chiến
tranh. Trước nhất, bài này sẽ xét lại sự phát triển của chương trình
hoạt động của IVS tại Việt Nam từ khi bắt đầu vào năm 1956 đến khi tổ
chức này rời khỏi Việt Nam vào năm 1971. Thứ hai, tiểu luận này này sẽ
cho thấy sự Mỹ hóa chiến tranh đã ảnh hưởng đến hoạt động và các chương
trình của người làm việc nhân đạo như thế nào. Thứ ba, trường hợp của
IVS chứng minh sự Mỹ hóa chiến tranh đã ảnh hưởng tiêu cực đến người làm
việc nhân đạo ra sao khi sự liên kết với chính phủ Mỹ khiến họ mất uy
tín dưới nhãn quan của người dân Việt Nam. Cuối cùng, câu chuyện của IVS
cho thấy những ảnh hưởng của sự Việt Nam hóa chiến đến những tổ chức
nhân đạo tại Việt Nam. Tiểu luận này cho rằng việc Mỹ hóa chiến tranh
Việt Nam năm 1965 đã dẫn tới việc gia tăng sự giám sát của chính phủ Mỹ
đối với hoạt động của IVS đã tạo áp lực với nhân viên của IVS để thực
hiện mục tiêu của chính phủ chứ không phải là của riêng của tổ chức này
đã đưa đến sự cực đoan hóa của các nhân viên IVS; những người này xem
chương trình chính phủ Mỹ là không thích hợp với nhu cầu của người dân
Việt Nam.
* * * * * * * * * * * * *
International Voluntary Services được
các giáo hội Mennonite, Brethren, Quaker thành lập vào năm 1953 và hiến
chương ghi rằng tổ chức này được thành lập “để sử dụng đóng góp của các
tình nguyện viên một cách có tổ chức để chống nghèo đói, bệnh tật và mù
chữ ở các khu vực kém phát triển trên thế giới và do đó mang lại hòa
bình, hạnh phúc và thịnh vượng cho người dân.”[5] Để đạt được những mục
tiêu này, tổ chức IVS đã tuyển dụng sinh viên trẻ vừa tốt nghiệp đại
học, sang sống ở nước ngoài, tạo quan hệ trực tiếp giữa người-với-người
với người dân, để tạo ra các dự án thích hợp với người bản xứ. IVS được
tài trợ qua một sự kết hợp của các tổ chức tư nhân và chính phủ nhưng
phần lớn các dự án của IVS đều do Cơ quan Phát triển Quốc tế (AID, tiền
thân của USAID) – cơ quan chính phủ Mỹ chịu trách nhiệm về quản lý viện
trợ nước ngoài, tài trợ. Vì các hoạt động này của IVS xảy ra ở các quốc
gia kém phát triển, công việc của IVS thường liên quan đến chăn nuôi,
thí nghiệm cây trồng, vệ sinh môi trường, y tế công cộng, xây dựng đường
xá, đào giếng, và giáo dục. Do tính chất của những công tác này, hầu
hết các người tình nguyện là sinh viên tốt nghiệp đại học về các ngành
khoa học nông nghiệp, kỹ thuật và giáo dục.[6]

Phòng ngủ của tình nguyện viên IVS (VNCH, 1961). Nguồn LIFE/John Dominis
IVS đã đạt được thỏa thuận với Tổ chức
Sứ mệnh Hải ngoại Hoa Kỳ (United States Overseas Mission, USOM); đây là
tổ thực địa của USAID phụ trách phân phát viện trợ kinh tế, vào ngày 21
tháng 9 năm 1956 và các nhân viên IVS đầu tiên đã đến Việt Nam trong
vòng bốn tháng sau đó. Hai toán đầu tiên đã được phân công làm việc với
những người di cư Bắc Việt tại khu vực dự án 13 và 15 gần Cái Sắn, 125
dặm về phía Nam Sài Gòn, và Ban Mê Thuột, ở vùng cao nguyên trung phần,
và là thủ phủ của tỉnh Đắk Lắk. Khu vực dự án 15 ở của Ban Mê Thuột cách
thành phố 32 km nằm giữa hai làng tân lập (8 tháng trước đó) là Hà Lan A
và Hà Lan B , cho người di cư Thiên chúa giáo định cư. [Ngày nay nay là
Giáo xứ Vinh Đức và Vinh Quang ở Phường Bình Tân, Thị Xã Buôn Hồ, Tỉnh
Đăk Lăk – TM]. Gordon Brockmueller, một trong những nhân viên đầu tiên
của IVS ở Việt Nam, và sau này là trưởng đoàn của IVS tại Việt Nam, mô
tả người dân của hai làng Hà Lan là những người can đảm, định cư ở vùng
cao nguyên Trung phần là nơi “thiếu nguồn nước dồi dào cần thiết cho
cách trồng lúa mà họ đã biết.”[7] Kể lại thời gian của ông tại Việt Nam
như là một chuyên gia nông nghiệp, Brockmueller tập trung vào việc xây
dựng mối quan hệ cá nhân với người dân Việt Nam vì họ là những người có
“bản tính độc lập.”[8] Tuy nhiên, việc xây dựng quan hệ với dân làng gặp
phải khó khăn vì những lời đồn thổi rằng IVS có kế hoạch “lập khu đồn
điền, lợi dụng sức lao động của dân làng” và họ là “những người truyền
giáo Tin Lành”[9] Để phá vỡ những hoài nghi đó, IVS đã cùng với những
người tị nạn/di cư xây dựng nhà ở, chăm sóc người bệnh, và dọn đất cấy
trồng. Những hoạt động này đã giúp nhân viên IVS xây dựng mối quan hệ
tốt với người dân Việt Nam vì có được sự lòng tin là bước đầu tiên và
quan trọng, vì nếu không có sự tin tưởng của họ, người dân Việt Nam sẽ
không muốn hợp tác hoặc nghe theo lời đề nghị của những người Mỹ trẻ
tuổi, có hiểu biết khác với các phương pháp làm nông truyền thống họ đã
biết. Hơn nữa, nhờ làm việc sát với người dân Việt Nam và xây dựng được
mối quan hệ cá nhân với họ, nhân viên IVS ở một vị trí để hiểu được vấn
đề của người dân Việt Nam mật thiết, rõ ràng hơn so với sự hiểu biết của
giới chức chính phủ Mỹ.
Trong việc phát triển các mối quan hệ
“người-với-người” mà IVS coi là quan trọng, Brockmueller nhớ lại việc
giúp nông dân vác tre và học cách người Việt Nam sử dụng những loại tre
khác nhau như thế nào. Đây là những tương tác chặt chẽ cho phép
Brockmueller trở thành bạn của nông dân và cuối cùng mới đưa ra những đề
nghị mà ông tin rằng sẽ có lợi cho dân chúng. Một trong những dự án
chính của Brockmueller là cùng làm việc với nông dân để khuyến khích họ
nuôi gà Mỹ đẻ nhiều trứng hơn so với những con gà Việt Nam nhỏ hơn, cho
ít trứng hơn; Tuy nhiên, theo Brockmueller, nuôi gà Mỹ cần phải có
chuồng và chăm sóc nhiều hơn là nuôi những con gà Việt Nam thả trong
sân.[10] Tuy đây là một đề nghị tốt vì trứng có thể vừa dùng làm thức ăn
và vừa bán được ở chợ, Brockmueller đã phải mất một thời gian đáng kể
mới thuyết phục được một dân làng dám làm, ông Nguyễn Văn Sức, vì đầu tư
vào việc nuôi gà Mỹ cần chi phí khá lớn. Ban đầu ông Sức “không hoàn
toàn tin tưởng” Brockmueller nhưng, cuối cùng, đã đồng ý nuôi gà Mỹ.
Cùng nhau làm việc để chuẩn bị tiếp nhận hai mươi con gà, hai người đã
phát triển mối quan hệ cá nhân; đây là cơ hội cho Brockmueller học ngôn
ngữ, văn hóa và thói quen của người dân Việt Nam. Trong lúc Brockmueller
làm những công tác phát triển nông nghiệp, các thành viên khác của nhóm
IVS cũng thiết lập các mối quan hệ với người dân Việt Nam đặc biệt là
cô y tá Bowe, vì là người chữa bệnh, được cơ hội tiếp xúc gần gũi với
người dân, đã giúp cô Bowe lấy được lòng tin của họ.[11]
Những hành động của nhân viên IVS cho
thấy rằng họ đã rất cố gắng để trở thành một phần tử của cộng đồng Việt
Nam và tìm cách giúp người dân cải thiện cuộc sống của họ bằng cách giới
thiệu các loại cây trồng và gia súc mới. Đây là điều đặc biệt quan
trọng đối với người tị nạn miền Bắc mới di cư vào Nam mà Brockmueller mô
tả rằng họ là những người không quen thuộc với vùng đất mới và đó là cơ
hội cho phép nhóm IVS có thể làm việc sát cạnh với người dân di cư để
phát triển ngôi làng mới và tạo điều kiện cho người dân thích ứng và
thành công. Tuy nhiên, ở nhiều mặt, nhóm IVS cũng là đại diện điển hình
cho quan điểm của những người Mỹ không hiểu rõ về người dân Việt Nam.
Viết về kinh nghiệm của họ, các thành viên IVS không bao giờ thảo luận
về việc người Việt Nam có yêu cầu họ giúp đỡ hay muốn học hỏi kiến thức
của họ hay không. Thay vào đó, họ cho rằng phương pháp của họ (người Mỹ)
là tốt hơn so với phương pháp của người Việt Nam, và họ không hiểu rằng
nhiều người tị nạn đã nghĩ rằng việc di cư vào Nam chỉ là một việc tạm
thời đến khi họ có thể trở về lại quê quán ở miền Bắc. Do đó các nhân
viên IVS dù làm việc sát cạnh dân làng vì một sự đam mê chính đáng muốn
giúp người dân cải thiện cuộc sống của họ, nhưng những người Mỹ làm
thiện nguyện này không bao giờ hỏi việc giúp đỡ của họ có cần thiết hoặc
hành động của họ có thực sự cải thiện đời sống của người dân địa phương
hay không.

“Văn phòng” nơi nhân viên IVS làm việc hành chánh (VNCH, 1961). Nguồn LIFE/John Dominis
Trong lúc IVS tiếp tục làm việc với
người dân Việt Nam, mối quan hệ của họ với Nhóm Cố vấn quân sự Mỹ
(American Military Advisory Group, MAAG) chưa khi nào là những giao tiếp
tốt đẹp. Theo Brockmueller, khi Tom Luche, một thành viên của đội ngũ
nhân viên IVS, râu ria xồm xoàm và nhơ nhuốc vì cuộc sống trong làng, đi
xin một bản đồ của khu vực, ông Đại tá MAAG đã không chấp nhận tư cách
của người làm việc tình nguyện và hỏi “IVS của anh là loại tổ chức như thế nào? Các anh không bao giờ tắm gội hay sao?”[12]
Từ đó trở đi, các thành viên IVS không được khuyến khích ghé lại các
căn nhà của MAAG. Hơn nữa, hai cựu chiến binh quân đội Mỹ hiện phục vụ
với IVS cũng được yêu cầu ngưng ghé đến căn nhà của MAAG vì vai trò hiện
tại của họ làm cho họ trở thành người không chấp nhận được. Thành viên
IVS Peter Hunting nhớ lại “vài cuộc đụng độ với giới quan chức” và kể
lại một cuộc gặp gỡ với một vị trung tá quân đội Mỹ là người đã “nổi
nóng vì tôi đang lập lại công việc mà ÔNG ẤY, như một công dân và trung
tá quân đội Mỹ (vỗ ngực) đang làm trong tám tháng vừa qua.”[13] thái độ tiêu cực của giới quân đội Mỹ với các thành viên IVS khiến Brockmueller viết rằng “chúng tôi đã bị những anh em người Mỹ của chúng tôi tẩy chay ở một vùng đất xa lạ!”[14]
Mặc dù những cuộc gặp gỡ ban đầu với các cố vấn quân sự Mỹ chỉ là một
điềm báo trước, chúng đã chứng minh rằng các tổ chức nhân đạo chưa bao
giờ được quân đội Mỹ xem như một hoạt động chính đáng trong chính sách
của Mỹ ở Việt Nam.
Trong suốt những năm cuối thập niên 1950
cho đến những năm 1960, tổ chức của IVS tại Việt Nam đã tăng từ tám, 8,
tình nguyện viên đầu tiên từ năm 1958 lên năm mươi ba, 53, người tình
nguyện vào năm 1963 khi tổ chức này thành lập một chương trình dạy tiếng
Anh. Trong thời gian năm năm liên tục đó, IVS tiếp tục làm việc chặt
chẽ với người dân Việt Nam và cán bộ kỹ thuật của chính phủ trong việc
canh tác, cải tiến cây trồng, và phát triển gia súc. Về mặt công tác
giáo dục, IVS có hai mươi lăm, 25, người ở 8 địa điểm kể cả Huế và một
số ấp chiến lược. Marybeth Clark, một cựu thư ký của AID tại Việt Nam đã
gia nhập IVS vào giữa những năm 1960 vì cô tin vào phương pháp của IVS,
phát biểu,
“Họ [những người tình nguyện IVS] sống
với dân làng Việt Nam và không có quá nhiều mâu thuẫn với người dân. Nó
chỉ có vẻ, đối với tôi, rằng những kinh nghiệm đó đã có giá trị cho bản
thân họ, và từ những hoạt động tích cực này họ có thể trở nên hiệu quả
hơn trong bất cứ điều gì họ đang làm, và trong mối quan hệ của họ với
người Việt Nam.”[15]
Trong cuộc thăm dò do AID thực hiện,
Clark nói rằng cô đã bỏ AID vì thấy đó là một bộ máy quan liêu, không
quan tâm đến việc giúp đỡ người dân Việt Nam, và vì cô cảm thấy bị cô
lập. Clark kể lại rằng việc cô muốn học tiếng Việt và làm việc với người
Việt thậm chí đã bị cấp trên trách mắng vì cô nói tiếng Việt. Tại sao
IVS hấp dẫn hơn một cơ quan chính phủ?
Có nhiều lý do tại sao làm việc với IVS
lại hấp dẫn hơn làm việc cho AID. Thứ nhất, khi ở Sài Gòn tôi ngày tôi
yêu Việt Nam nhiều hơn … Với IVS tôi có thể làm việc sát cánh với với
người dân Việt Nam hơn là làm việc trong một văn phòng của Mỹ. Hai là,
tôi có thể đi dạy, đó là điều mà tôi ưa thích… Và ba là, tôi cảm thấy
tôi muốn cộng tác với các tổ chức như là IVS.[16]
Là một giáo viên, Clark đã làm việc tại
một trường trung học đệ nhất cấp ở Huế, ở đó cô đã dùng sách giáo khoa
của AID và dạy vài giờ tiếng Anh cho 4 đến 6 lớp khác nhau mỗi ngày. Hồi
ức của Clark về USAID cho thấy rằng tổ chức này chủ trương viện trợ
nhân đạo từ trên xuống, dùng đồng đô-la để thuyết phục người dân Việt
Nam thực hiện mục tiêu của Mỹ. Phương pháp này rõ ràng là mâu thuẫn với
hiểu biết của Clark về lòng nhân đạo và cũng trái ngược với mục tiêu của
IVS là gầy dựng mối quan hệ giữa người-với-người. Sự khác biệt về mục
tiêu và phương pháp tổ chức giữa IVS và USAID hiện rõ khi cuộc chiến
tranh đã trở thành Mỹ hóa.

Tình nguyện viên IVS cùng canh tác với nông dân (VNCH, 11961). Nguồn: LIFE/John Dominis
Khi nhiệm vụ của IVS tăng trong những
năm đầu thập niên 1960, an ninh đã trở thành một vấn đề phổ biến vì thế
toán thiện nguyện gần Cái Sắn đã được chuyển đến một vị trí khác và
những thành viên IVS đã có kinh nghiệm sống gần với bạo lực chiến tranh.
Quân đội Mỹ cũng tăng cường sự hiện diện của cố vấn quân sự lên tới
11.000 người, dẫn đến sự tương tác chặt chẽ hơn giữa các thành viên của
IVS và quân đội, và AID với USOM cũng yêu cầu IVS nhận nhiều trách nhiệm
hơn. Việc này đã bắt đầu vào năm 1962 khi AID yêu cầu IVS có thêm giáo
viên dậy tiếng Anh – đây là một dự án IVS tham gia vì nó phù hợp mục
đích hoạt động của IVS nhưng, vào năm 1963, USOM can thiệp vào nội bộ
của IVS bằng cách yêu cầu trưởng đoàn IVS tại Việt Nam, Don Luce, phải
được thay thế. Hầu hết các nhân viên của IVS đều có cảm tình với Luce và
yêu cầu ông phải giữ vị trí của mình, và Luce đã khẳng định rằng USOM
muốn thay ông vì ông từ chối phê chuẩn những dự án của họ vì mâu thuẫn
với nguyên tắc của IVS và USOM ganh tị vì có ít quan hệ với dân chúng
hơn ông. Hơn nữa, một báo cáo IVS tuyên bố “IVS/W rất quan tâm hơn vì
việc đoàn ngũ hoá ngày càng tăng của chương trình [sic] và việc giảm tự
do dưới ban quản lý mới của USAID.”[17]Cuộc đụng độ đầu tiên này
giữa IVS và USAID xẩy ra vào năm 1963 cho thấy những vấn đề cuối cùng
lên đến đỉnh điểm trong năm 1967 khiến Don Luce phải từ chức.
Năm 1963 là năm đầy biến động đối với
Việt Nam khi Tổng thống Miền Nam Việt Nam [VNCH I] Ngô Đình Diệm bị lật
đổ và bị sát hại trong cuộc đảo chính [1/11/1963] phần nào đó được sự
chấp thuận của chính phủ Mỹ. Việc loại bỏ Tổng thống Diệm tạo ra sự bất
ổn ở Việt Nam và đã dẫn đến việc chính phủ Mỹ liên lụy nhiều hơn vì theo
quan điểm của chính phủ Mỹ, sự thành công của Việt Nam lúc đó đã trở
thành trách nhiệm của Mỹ. Khi chính phủ Mỹ bị ràng buộc hơn ở Việt Nam,
USAID đã thay đổi, những chương trình phát triển với quần chúng đã
chuyển hướng thành các dự án bình định do chính phủ tài trợ và đã cố
gắng để kết hợp hoạt động của IVS vào với mục tiêu mới của họ. Sự thay
đổi chiến lược và ràng buộc của chính phủ Mỹ tại Việt Nam này mâu thuẫn
với các mục tiêu của IVS. Những xung đột đó buộc Luce phải cố gắng để
duy trì sự độc lập của IVS và ngăn chặn sự kết hợp của IVS để trở thành
một cơ quan chính phủ.
Trong những năm 1964-1965, sự leo thang
của cuộc chiến bắt đầu gây trở ngại đáng kể cho IVS khi họ phải đối phó
với sự can thiệp liên tục của USAID và trong một tình hình nguy hiểm hơn
khi chiến tranh trở nên khốc liệt. Vấn đề với USAID một lần nữa lại
bùng lên, khi IVS tái bổ nhiệm Don Luce là người đứng đầu tổ chức ở Việt
Nam; USAID phản đối, nhưng các nhân viên “hậu thuẫn người trưởng đoàn,
nhất định đòi [IVS] ký lại hợp đồng thêm hai năm nữa ông ta.”[18] Những
tình nguyện viên tin rằng nếu để USAID quyết định ai là người lãnh đạo
của IVS, thì trước sau họ cũng sẽ quyết định nơi đặt để người tình
nguyện. Hơn nữa, các nhân viên của IVS xác định những gì họ tin là có sự
khác biệt chính giữa IVS và USAID và cho rằng IVS là một hoạt động tản
quyền so với USAID và đặt câu hỏi “IVS đi giúp đỡ dân làng hay chỉ đơn
thuần thực hiện chính sách của USAID, rồi hy vọng sẽ đạt được một số lợi
ích?”[19] Đụng độ về tổ chức này trở thành nổi cộm bằng nhận định cho
rằng IVS làm việc theo nhóm sát với người dân và biết “đánh giá cao
những nguyện vọng của họ” trong khi USAID hoạt động từ trên xuống và
“thiếu. . . một cấu trúc để giao tiếp với các thôn, bản.”[20] Các thành
viên IVS cho rằng công tác của họ trực tiếp với người dân hơn là phải
qua Chính phủ Việt Nam khiến họ khác hẳn với USAID. Bằng cách làm việc
và sinh sống trực tiếp với người dân Việt Nam hơn là phát triển các
chương trình qua giới chức của bộ máy quan liêu của chính phủ, các thành
viên IVS tin rằng phương pháp giúp dân của họ tốt hơn và có hiệu quả
hơn. Sự bất đồng giữa IVS và USAID đã một lần nữa được hoà giải nhưng
IVS đã buộc phải công nhận rằng “Công tác của IVS tại Việt Nam là qua
các hợp đồng với Chính phủ Hoa Kỳ;”[21] đó là một tuyên bố có nghĩa rằng
dù IVS là một tổ chức độc lập, chính phủ Mỹ có thể yêu cầu họ rời khỏi
Việt Nam bất cứ lúc nào.
Trong khi những rắc rối với USAID tiếp
tục, leo thang về mặt quân sự của Mỹ cũng tạo ra những vấn đề quan trọng
đối với các nhân viên IVS vì những chuyên viên nông nghiệp bị hạn chế
hoạt động trong phạm vi các chương trình giáo dục chứ không phải là làm
việc điền dã và các toán trong lĩnh vực y tế công cộng và ấp chiến lược
dần dần bị “loại bỏ.”[22 ] Không thể làm việc sát cánh với người dân
Việt Nam trong các dự án nông nghiệp, IVS đã buộc phải thừa nhận thực tế
mới của cuộc chiến tranh là đặt an toàn tính mạng trên công tác nhân
đạo. Ưu tiên cho an ninh cá nhân lại được nhấn mạnh hơn nữa khi nhân
viên IVS Peter Hunting bị phục kích và bị giết chết ngày 12 tháng 11 năm
1965 ở phía tây nam của Cần Thơ, nơi ông làm giáo viên cố vấn cho nông
dân. Hơn nữa, nhân viên IVS đã báo cáo về những cuộc nổ súng, mất một
chiếc xe jeep vì trúng đạn, và căn nhà của IVS ở Blao đã bị bỏ bom.[23]
May mắn cho IVS, không có trường hợp tử vong nào khác xảy ra trong tình
trạng đó chứng tỏ rằng cuộc Mỹ hóa của chiến tranh vào những năm
1964-1965 đã tạo ra những thách thức bạo động mới cho công tác nhân đạo
của IVS đặc biệt về mặt làm việc trực tiếp với người dân Việt Nam.
Ngoài những hạn chế về mặt công tác do
cường độ của cuộc chiến, giám đốc IVS đã báo cáo về trụ sở ở Mỹ rằng “cả
hai Chính phủ Việt Nam và Mỹ đang yêu cầu IVS làm việc theo hợp đồng:
(1) Đại diện USOM tại Tây Ninh đang cần một giáo viên dậy tiếng Anh để
tạo sự thông cảm tốt hơn. (2) Đoàn Thanh niên Chí nguyện (một tổ chức
Thanh niên Việt Nam tương tự như IVS) đã yêu cầu tổ chức IVS ở Việt Nam
lo tất cả các thỏa thuận tài chính với USOM thay cho họ.”[24] Lá thư này
cho thấy việc Mỹ hóa cuộc chiến giữa những năm 1960 đã gây cản trở đáng
kể đến các hoạt động và những nỗ lực của IVS. Lúc đó IVS đã được yêu
cầu phải đưa nhân sự để hỗ trợ và tư vấn cho các dự án của USAID và
chính phủ Việt Nam thay vì thực hiện các mục tiêu của họ. Điều này chứng
tỏ rằng cả hai, USOM và chính phủ VNCH, đều thấy IVS là một tổ chức rất
hữu ích, nó cũng cho thấy rằng những chính phủ quốc gia này đã dính
dáng nhiều hơn đến việc điều khiển các tổ chức nhân đạo và những hoạt
động của họ. Sự can thiệp này đã soi mòn và làm nhân viên IVS xem các
hành động của USAID là sự quấy rầy từ bên ngoài.

Nhân viên IVS trong bếp (VNCH, 1961). Nguồn: LIFE/John Dominis
Hơn nữa, Don Luce, trưởng đoàn IVS đã
xác định những tác động tiêu cực của sự Mỹ hoá cuộc chiến đối với những
người tình nguyện, và viết “ngày càng tăng độ nhạy cảm của người Việt
Nam với sự tham gia người Mỹ trong lúc số người Mỹ hiện diện ngày mỗi
tăng.”[25] Trong khi Luce không bao giờ nói rõ về những gì gọi là “sự
nhạy cảm”, ông dường như cho thấy việc tăng sự hiện diện của người Mỹ ở
Việt Nam đã cản trở công việc của IVS. Khi ngày càng nhiều người Mỹ đến
Việt Nam, thì tất cả người Mỹ đều được xem như nhau, cùng hướng tới cùng
một mục tiêu hơn là một tập hợp của nhiều tổ chức [người Mỹ] với những
mục tiêu khác nhau. Điều này đã được Luce nhấn mạnh khi kể lại những cảm
tưởng của một người bạn Việt Nam đã nói với ông rằng, “Người dân Việt
Nam không phân biệt được giữa tổ chức của anh và chính phủ Mỹ. Điều này
quá phức tạp, và, kết quả là, chính sách của Mỹ đã phủ bóng trên bất cứ
điều gì anh làm hoặc nói.”[26] Nhận xét này cho thấy theo quan điểm của
người Việt Nam thì không có sự phân biệt giữa quân đội Mỹ và nhân viên
cứu trợ của Mỹ – họ đã được xem như một khối người Mỹ đồng nhất chứ
không phải là người của những tổ chức khác nhau.
1966, cuộc xung đột giữa IVS với USAID
và quân đội Mỹ không những vẫn tiếp diễn mà còn trở nên trầm trọng hơn.
Một IVS nhân viên than phiền rằng hầu hết các cơ quan nhân đạo phương
Tây chỉ quyên góp phẩm vật viện trợ hơn là giúp đỡ những người Việt Nam
học hỏi kỹ năng để họ có thể tự lực cánh sinh. “Thật là nản chí khi khi
nghe quy hoạch dự án chung quanh lượng phẩm vật quyên tặng… Điền đơn xin
viện trợ rồi chờ phẩm vật cứu trợ đổ xuống trước cửa thì chẳng có gì là
khó. Thái độ tự giúp mình mới là việc rất khó để ghi nhớ.”[27] Một nhân
viên khác của IVS chỉ trích sự tăng trưởng của USAID viết rằng IVS “sẽ
bị nhận lầm là phụ tá đại diện ở các tỉnh cho USAID. Chúng tôi đang
chiến đấu cho sự sống còn của chúng tôi tại USAID.”[28] Nỗi thất vọng
của nhân viên IVS chứng tỏ các cuộc xung đột tiếp tục giữa hai cơ quan
và những ảnh hưởng của sự Mỹ hoá chiến tranh trên cả hai tổ chức USAID
và IVS. Quân đội có mặt ngày càng nhiều nhiều hơn và tiếp thu các hoạt
động của Mỹ tại Việt Nam, USAID đã bị buộc phải có những hoạt động tương
quan với chiến lược quân sự Mỹ và cố gắng buộc IVS phải đi theo đường
lối của quân đội. Điều này đã tạo ra xung đột và sự gián đoạn giữa hai
cơ quan khiến ban lãnh đạo IVS đã đưa đề nghị quốc tế hoá các chương
trình của IVS tại Việt Nam và để tư nhân tài trợ, có như thế IVS mới có
thế hoạt động độc lập với USAID.[29]
Những vấn đề ảnh hưởng đến mối quan hệ
tam giác giữa IVS, USAID, và quân đội Mỹ cũng đã xảy ra với các tổ chức
nhân đạo khác, nhưng, trong tình trạng này, nhiều tổ chức chấp nhận tuân
lệnh của chính phủ Mỹ. Đây là sự thật đối với một tổ chức nhân đạo lớn
nhất có hoạt động tại Việt Nam, dó là Dịch vụ Cứu tế Thiên chúa giáo
(Catholic Relief Services, CRS), các tổ chức nhân đạo của Giáo hội Thiên
chúa giáo tại Hoa Kỳ.[30] Vào mùa hè năm 1967, National Catholic
Reporter (NCR), một tờ báo Mỹ viết các chủ đề về Giáo Hội Thiên chúa
giáo, đã gửi Michael Novak đến Việt Nam để viết một loạt bài về chiến
tranh. Những bài báo của Novak rất khắc nghiệt và phê bình gay gắt cuộc
chiến với các tiêu đề như: “Tại Việt Nam, Hoa Kỳ có nghĩa là tiền và
sex;” “Sự khủng bố của chúng ta, sự tàn bạo của chúng ta;” và “CRS hỗ
trợ Nhân dân tự vệ của Miền Nam Việt Nam.”[31] Trong một bài về CRS,
Novak mô tả tổ chức bác ái này là “công cụ sẵn sàng của chính sách quân
sự của Mỹ”, nhưng quan trọng hơn, ông cũng đã lưu ý rằng tất cả các tổ
chức nhân đạo (nước ngoài) hoạt động ở việt Nam đều đã phải đối phó với
áp lực từ phía quân đội Mỹ.
Giới quân sự Mỹ mong muốn tất cả giới
dân sự giúp đỡ nhiều hơn đối với các chính sách quân sự của Mỹ. Một số
biện pháp đã được thực hiện tại Huế, ví dụ, để buộc một thành viên của
IVS phải ngưng việc dạy tiếng Anh tại Đại học Huế. Chính sách của Mỹ, kể
từ khi có các cuộc bạo loạn Phật giáo ở Huế, là không phải để giúp
trường đại học đó.[32]
Trong khi trách nhiệm của Novak là báo
cáo về tình hình chiến tranh Việt Nam cho giới độc giả Thiên Chúa giáo,
thảo luận của ông về CRS và mối quan hệ giữa các tổ chức nhân đạo và
chính phủ Mỹ chứng thực các khó khăn của IVS. Trong cả hai trường hợp,
sự Mỹ hóa chiến tranh buộc các tổ chức nhân đạo phải thuận theo những
quyết định của quân đội Mỹ hầu có thể tiếp tục hoạt động tại Việt Nam,
và theo Novak, CRS không những chỉ quy phục nhưng mà còn là một công cụ
rất quan trọng cho chính sách của Mỹ; Tuy nhiên, yêu cầu và phương pháp
[làm việc] của quân đội Mỹ đi ngược với sứ mệnh của IVS và họ đã quyết
định không đáp ứng yêu cầu của chính phủ Mỹ. Sự kháng cự này đã bùng nổ,
một tháng sau khi bài viết của Novak mô tả mối quan hệ giữa CRS và
chính phủ Mỹ được đăng, khi bốn mươi chín thành viên của IVS từ chức.
Ngày 20 Tháng Chín năm 1967, trang nhất
của tờ New York Times đưa tin mô tả sự từ chức hàng loạt dưới tiêu đề “4
Trưởng đoàn thiện chí từ chức vì cuộc chiến.”[33] Bài báo mô tả công
việc của IVS, các tài trợ mà tổ chức này nhận được từ chính phủ, và
chiến tranh đã ảnh hưởng đến công tác nhân đạo của họ thế nào khiến bốn
mươi chín thành viên của tổ chức này phải từ chức. Bản tin nói tiếp rằng
việc từ chức của các tình nguyện viên IVS sau nhiều tháng tranh chấp
“giữa một số cơ quan cứu trợ, và sứ mệnh của Hoa Kỳ ở đây. Những tranh
chấp đó tập trung vào quyền của người tình nguyện dân sự Mỹ được thảo
luận về chiến tranh với người dân miền Nam Việt Nam và người Mỹ và về
những gì mà vài cơ quan thiện nguyện cảm thấy bị áp lực của Hoa Kỳ để
đưa họ tham gia vào các nỗ lực chiến tranh.”[34] Bản tin này do Bernard
Weinraub thực hiện, nhấn mạnh về những công bố của các thành viên IVS và
của Novak là chính phủ Hoa Kỳ, đặc biệt là quân đội Mỹ, đã cố gắng sử
dụng mạng lưới và quan hệ giữa các tổ chức nhân đạo để thực hiện chương
trình và mục tiêu của riêng mình. Vì các tổ chức này xem tự coi là độc
lập với chính sách nhà nước, họ ngày càng trở nên nản lòng vì quân đội
Mỹ yêu cầu họ phối hợp với các đề nghị của quân đội để thực hiện những
mục tiêu. Việc tăng cường sự hiện diện của Mỹ và áp lực quân sự ngày
càng tăng để phù hợp với mục tiêu của chính phủ Hoa Kỳ cuối cùng dẫn đến
sự từ chức của lãnh đạo IVS. Tuy nhiên, sự can thiệp của chính phủ chỉ
là một phần của câu chuyện vì những người đã từ chức cũng thảo luận về
những tác động có hại của chiến tranh đối với người dân Việt Nam và mối
quan hệ của các nhân viên của IVS với người dân. Don Ronk, người đứng
đầu của IVS tại Đà Nẵng và một cựu chiến binh của quân đội Mỹ, đã tuyên
bố “tôi phản đối vì lợi ích tốt nhất cho những người bạn Việt Nam của
tôi và để nói những gì họ phần lớn không thể nói: Hãy ngưng cuộc chiến
này.”[35] bài viết cũng trích dẫn Luce người đã nhấn mạnh cả hai, sự tàn
phá của chiến tranh và những thất bại của USAID, “Chúng tôi đang nhìn
thấy sự tàn phá của cuộc sống gia đình của người dân Việt Nam, ngành
nông nghiệp và vận tải tại đây. Người ở Mỹ nghe vậy và đề nghị chúng tôi
viết một bản báo cáo và sau đó không có gì xảy ra. Việt Nam trở thành
một vùng đất để viết báo cáo.”[36]
Tuy nhiên, ngay cả khi những người đó từ
chức để phản đối hành động của chính phủ Mỹ thì lại bị coi như là đại
diện cho phong trào phản chiến, họ thực sự chỉ chống lại chính sách và
các phương pháp của Mỹ sử dụng trong chiến tranh chứ không phải chống
lại hoàn toàn sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam. Về mặt này họ thấy các
cam kết quân sự của Mỹ tại Việt Nam mong manh và nửa vời và nói rằng
“trừ khi Mỹ nhận vai trò lãnh đạo để đi đến một kết thúc. Tôi không
“thấy bất kỳ một khả năng nào để chúng ta có thể chiến thắng.”[37] Điều
này đã được một nhân viên IVS khác nói rõ thêm, “Chính sách của Mỹ, nếu
được xây dựng đúng cách, được coi là chính sách đối với tôi… Tôi nghĩ
rằng tôi đã thấy một số khía cạnh của chính sách không đặt đúng
chỗ.”[38] Trở lại Hoa Kỳ sau khi ông từ chức, khi điều trần trước quốc
hội Don Luce cho biết, “Tôi hoàn toàn ủng hộ và tán thành chương trình
của chúng ta giúp đỡ người tị nạn. Những người tị nạn hồi năm 1965 phần
lớn là những người tị nạn cộng sản… Ngày nay, người tị nạn là chỉ có một
vài trường hợp là chạy trốn Cộng Sản. Hầu hết các trường hợp, họ một là
bỏ chạy vì sợ hãi bị bỏ bom, hay hai là vì họ bị buộc phải ra đi vì
hoạt động của quân đồng minh.”[39] Những ý kiến này của Luce và những
nhân viên IVS khác cho thấy rằng họ không phải là người phản chiến cực
đoan nhưng thực ra họ hỗ trợ các hoạt động chống cộng của chính phủ Mỹ
tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả trong khi hỗ trợ một khía cạnh của
chính sách nhà nước, họ tin rằng những chiến lược và giải pháp quân sự
không có hiệu quả và tạo ra những vấn đề mới. Tóm lại, nhiều người trong
số các nhân viên IVS tin rằng Hoa Kỳ đang cố gắng để giải quyết một vấn
đề chính trị bằng một giải pháp quân sự mà không giải quyết được tình
hình hiện tại.

Dân
dựng nhà trong ấp chiến lược,1963, được hậu thuẫn trực tiếp của “Phòng
Nông thôn vụ và Chống du kích” (“Office of Rural Affairs and
Counterinsurgency”), một tổ chức của USAID do Rufus Phillips – một nhân
viên CIA – đứng đầu. Nguồn ảnh: Rufus Phillips
Sự công khai từ chức và những lời chỉ
trích của các nhân viên IVS đã gây xôn xao trong nhiều ngày nhưng hành
động đó không tạo ra nhiều tranh luận trong giới báo chí Mỹ về chính
sách và chiến lược quân sự của Mỹ; hơn nữa, những vấn đề đó đã được
người đứng đầu của IVS, Arthur Z. Gardiner, và Đại sứ Mỹ Ellsworth
Bunker giải quyết nhanh chóng. Trong một cuộc trao đổi thư từ giữa hai
người, Bunker ghi nhận những việc tốt đẹp IVS đã thực hiện tại Việt Nam
nhưng nhấn mạnh rằng trong tương lai “người tình nguyện phải tự kiềm chế
không tham gia chính trị ở Việt Nam.”[40] Gardiner đã đồng ý ngăn chận
những bình luận chính trị của nhân viên IVS để duy trì mối quan hệ của
tổ chức với chính phủ Mỹ. Hành động của Gardiner cho thấy IVS có cố gắng
làm hoà với chính phủ Mỹ và duy trì tính phi chính trị trong hoạt động
của IVS ở Việt Nam nhưng điều này đã không thành công. IVS, dù muốn hay
không, đã là một tổ chức có huynh hướng chính trị và, bằng cách cố gắng
duy trì sự độc lập và từ chối làm theo chỉ thị của USAID và giới quân sự
Mỹ, IVS đã biểu lộ một quan điểm chính trị – họ quan niệm phương pháp
tốt nhất để giúp đỡ người dân Việt Nam là xây dựng mối quan hệ phi quân
sự [giữa người-với-người] từ dưới lên; quan điểm này trực tiếp mâu thuẫn
với chính sách của chính phủ Mỹ. Vì vậy, sự hòa giải bề ngoài chỉ là
miếng vá che đậy những khác biệt cơ bản giữa IVS và chính phủ Mỹ và cuối
cùng đã dẫn đến việc IVS rút lui khỏi Việt Nam.

Một góc ở Chợ Lớn sau trận Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của Việt cộng. Nguồn: Bettman-Corbis
Một thời gian ngắn sau loạt từ chức tập
thể của nhân viên IVS, quân Bắc Việt và MTGPMN mở cuộc tổng công kích
vào tháng Giêng năm 1968 [Tết Mậu Thân]. Cuộc tấn công này ban đầu đã
gây ngạc nhiên Hoa Kỳ và quân đội miền Nam Việt Nam nhưng họ đã nhanh
chóng hồi phục và phản công, đánh bại quân Bắc Việt và các lực lượng
quân của MTGPMN. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã đánh dấu một bước ngoặt
lịch sử trong chiến tranh Việt Nam vì người dân Mỹ, từ lâu đã được nghe
chính phủ Mỹ nói rằng cộng sản không có khả năng tấn công, đã bị sốc và
tức giận vì sự dối trá của chính phủ về tình hình cuộc chiến đưa đến
việc mất sự ủng hỗ của quần chúng. Vì cuộc tổng công kích đó đã gây ảnh
hưởng đến toàn bộ niền Nam Việt Nam, IVS cũng không tránh khỏi các tác
động sâu sắc ảnh hưởng đến tương lai của tổ chức của họ ở Việt Nam. Ngày
26 tháng 1, nhân viên IVS, David Gitelson, người đang công tác phát
triển cộng đồng, đã bị bắt và xử tử tại Long Xuyên thủ phủ của tỉnh An
Giang nằm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.[41] Lúc đó,
việc cộng sản xử tử Gitelson đã được xem như là một bi kịch nhưng không
ai nghĩ nó có liên quan đến cuộc tổng tấn công [bốn ngày sau đó – TM];
Tuy nhiên, dựa trên các mối quan hệ cá nhân của IVS với dân chúng Việt
Nam, thì việc Gitelson bị bắt giết hoàn toàn có thể vì ông đã nghe được
những thông tin mật hoặc bị ông đã bị quân MTGPMN bắt vì ông là người
Mỹ. Gitelson là nhân viên IVS thứ sáu thiệt mạng tại Việt Nam nhưng
không phải là người cuối cùng bị giết trong dịp Tết Mậu Thân. Ba nhân
viên IVS, Sandra Johnson, Gary Daves, và Marc Cayer, bị bắt tại thành
phố Huế, nơi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đã kéo dài ba tháng đẫm
máu. Thê thảm, chỉ có Johnson sống sót vì cả hai Daves và Cayer không
bao giờ trở lại và coi như đã chết.
Thảm kịch Tết Mậu Thân, cùng với sự từ
chức đồng loạt vào tháng Chín năm trước, đưa IVS đến một tình trạng hỗn
loạn và thiếu tổ chức. Cuộc chiến ngày càng trở nên dữ dội và nguy hiểm
hơn cho giới dân sự đặc biệt là người Mỹ, luôn luôn được coi là người
của quân đội. Không còn khả năng để thực hiện sứ mệnh đã nêu, giới lãnh
đạo của IVS tại Washington đã hỏi những thành viên IVS còn lại ở Việt
Nam là họ còn muốn tiếp tục công tác hay muốn trở lại Hoa Kỳ. Được lựa
chọn, 80 trong 162 thành viên IVS đã quyết định trở về Mỹ vì tình hình
an ninh hoặc vì họ không còn có thể thực hiện được nhiệm vụ theo yêu cầu
của IVS tại Việt Nam.[42] Đến tháng năm 1969 số nhân viên IVS lại giảm
hơn nữa, chỉ còn lại 54 người trong số đó chỉ có ba mươi là người từ Hoa
Kỳ. Trong lúc ban lãnh đạo IVS đã cố gắng để tăng số lượng tình nguyện
viên, thì cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã đánh dấu điểm khởi đầu của
sự kết thúc hoạt động của IVS ở Việt Nam vì hai lý do quan trọng. Thứ
nhất, như đã đề cập ở trên, việc Mỹ hóa chiến tranh đã tạo ra những
thách thức cho các thành viên IVS vì họ ngày càng được coi như một phần
của các lực lượng quân sự của Mỹ chứ không phải là một tổ chức độc lập
và, vì phản ứng của quân đội Mỹ với cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân,
quyền tự quản của IVS, không lệ thuộc chính phủ Hoa Kỳ đã trở thành việc
hầu như không thể có được. Thứ hai, sự khốc liệt của cuộc tấn công Tết
Mậu Thân và cái chết của ba trong số các thành viên của IVS nhấn mạnh
tầm quan trọng của vấn đề an ninh ảnh hưởng đến tất cả các tình nguyện
viên làm việc đơn lẻ tại Việt Nam vì họ đã trở thành mục tiêu quân sự.
Không còn khả năng làm việc trực tiếp với người dân Việt Nam, các thành
viên IVS không còn có thể hoàn thành sứ mệnh của tổ chức.
Sau Tết Mậu Thân và sau khi Richard M.
Nixon đắc cử Tổng thống, chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam chuyển
sang Việt Nam hóa cuộc chiến. Chiến lược này tập trung vào việc chuyển
giao trách nhiệm quân sự trong cuộc chiến cho chính phủ Việt Nam, đặc
biệt là ở mặt trận. Nhiều người trong số các thành viên IVS còn lại cho
rằng Việt Nam hóa chiến tranh là dấu hiệu “khởi đầu cho giai đoạn tương
đối bình thường hoá đời sống ở nông thôn.”[43] Tuy nhiên, họ đã lầm.
Việt Nam hóa chiến tranh thực sự dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế địa
phương vì việc rút viện trợ của Mỹ đã đưa đến tình trạng trộm cắp và hối
lộ. Một thành viên của IVS ghi nhận rằng “một cao ốc lớn do USAID xây
dựng” đã đổ nát “vì không có tiền bảo trì.” Mô tả này cho thấy rằng, đối
với IVS, Việt Nam hóa chiến tranh cũng xấu như sự Mỹ hoá chiến tranh.
Sự Mỹ hóa tạo ra quá nhiều sự can thiệp và buộc IVS phải làm theo chính
sách của chính phủ Mỹ mà họ từ chối; Tuy nhiên, Việt Nam hóa chiến tranh
đã xoá bỏ mạng lưới phân phối mà chính phủ Mỹ và USAID đã thành lập hơn
một thập kỷ để viện trợ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam và sự sụp đổ của
hệ thống này đã tạo ra sự bất ổn trong khu vực nông thôn. Từ góc nhìn
này, IVS đã có hoạt động tốt nhất trong giai đoạn đầu khi mới có sự tham
gia của Mỹ dưới thời Tổng thống Diệm dù chính phủ này, ở nhiều mặt vẫn
còn thiếu hiệu quả và thiển cận, nhưng đã giữ được ổn định và tổ chức
cho IVS thực hiện sứ mạng một cách an toàn và sự hiện diện của chính phủ
Mỹ chỉ là một phần nhỏ.
Việt Nam hóa cũng dẫn đến sự sút giảm
viện trợ của Mỹ cho chính phủ Nam Việt Nam. Sự suy giảm viện trợ Mỹ đã
đóng một vai trò trong việc IVS rút lui khỏi Việt Nam trong năm 1971 khi
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp của chính phủ miền Nam Việt Nam Nguyễn Hải
Bình đã chọn không tiếp tục tài trợ cho IVS vì cho rằng tổ chức này “đã
cho thấy đủ điều kiện làm công tác xã hội hơn là hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp.”
[Tác giả có lẽ đã
lầm tên; tổng trưởng Cải cách Canh nông và Ngư nghiệp, 1969-1975, là ông
Cao Văn Thân; T.s. Nguyễn Hải Bình là một chuyên viên trong trách nhiệm
Phụ tá Tổng trưởng Tài chánh (Nguyễn Bích Huệ) kiêm Tổng Giám đốc Thuế
vụ – TM]
Các nhân viên IVS tại Việt Nam có quan
điểm khác và trưởng đoàn IVS lúc đó, Hugh Manke, cho rằng Tổng thống
Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu quyết định không tài trợ cho IVS “vì
lý do chính trị, chúng tôi thực sự nhìn thấy những gì đang xảy ra ở các
vùng nông thôn và đó là điều không tốt cho chính phủ.”[44] Manke cũng
lập luận rằng chính USOM đã khuyến khích chính phủ Miền Nam Việt Nam
loại bỏ IVS và không sẵn sàng giúp IVS tái ký hợp đồng. Các nhân viên
IVS đã đưa ra một số đề nghị mới nhằm đáp ứng các điều kiện như Chính
phủ Việt Nam yêu cầu, nhưng họ đã luôn bị từ chối vì “báo cáo không đầy
đủ kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của Bộ.” IVS đã viết thêm nhiều đề nghị
gởi đến các bộ khác trong chính phủ như bộ Giáo dục, Xã hội, Phát triển
Sắc tộc nhưng cũng bị từ chối. Việc IVS không thể gia hạn hợp đồng hoạt
động tại Việt Nam, vì sự không bằng lòng của USAID giúp cho thấy rằng
những lời IVS trước sau như một đã chỉ trích và công khai tố cáo USAID
cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của IVS ở Việt Nam. Một thành viên IVS đã
viết “Trong lúc một số thành viên IVS gièm pha AID, và hoạt động như là
độc lập với AID, họ đã được chính tổ chức này (AID) bảo vệ trong những
hoạt động lấn vào chính trị.”[45] Khi chính phủ Nam Việt Nam có trách
nhiệm nhiều hơn trong việc điều hành, và USAID xuống vai trò cố vấn, thì
IVS mất lá chắn của chính phủ Mỹ. Vì thế, hoạt động của IVS nằm trong
tay của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà và họ đã chọn không tiếp xúc với IVS
nữa vì những lý do chính trị, tài chính, hoặc những lý do khác không
công bố. Với bản hợp đồng của họ chấm dứt, nhiệm vụ IVS tại Việt Nam đã
kết thúc vào tháng 9 năm 1971.
Trong mười bốn năm công tác tại Việt Nam
từ 1957-1971, IVS trải qua ba giai đoạn hoạt động khác nhau: 1957-1963
dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm, 1963-1968 trong thời Mỹ hóa chiến
tranh [giai đoạn của những Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, rồi Hội đồng
Quân lực, Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Ủy Ban
Hành Pháp Trung Ương cuối cùng là hai năm đầu của nền Đệ nhị Cộng hoà
với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – TM], và cuối cùng là giai đoạn Việt
Nam hóa 1968-1971 [thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – TM]. Giai đoạn đầu
tiên dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là giai đoạn IVS ở đỉnh cao của
công tác. Rất ít khi có sự hiện diện quân sự của Mỹ cản trở những dự án,
USAID khuyến khích và tài trợ các hoạt động IVS thực hiện, và chính phủ
Diệm hỗ trợ các tổ chức nhân đạo của Mỹ vì như thế ông đã tiếp cận được
với nhiều nhóm người Mỹ khác nhau. Tuy nhiên, sau cuộc đảo chính loại
bỏ ông Diệm vào năm 1963, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Việt Nam tăng
lên đáng kể đưa đến việc tương tác, va chạm nhiều hơn giữa IVS và quân
đội Hoa Kỳ; Hơn nữa, vì quân đội Mỹ kiểm soát chính sách của Mỹ, mục
tiêu của USAID đã thay đổi để phù hợp với các mục tiêu quân sự. Điều này
tạo ra sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa IVS và USAID vì nhân viên
IVS lúc đó đã được lệnh phải thực hiện mục tiêu của USAID hơn là phát
triển và thực hiện các dự án riêng của họ với người dân Việt Nam. IVS
thấy những xâm phạm của USAID vào nội bộ để chỉ đạo tổ chức của họ là sự
can thiệp từ bên ngoài làm suy yếu mục đính công tác của họ để làm việc
trực tiếp với người dân Việt Nam vào các dự án mà họ coi là có lợi. Sự
trái ngược về quan điểm và mục tiêu giữa hai tổ chức cuối cùng đã sôi
tràn vào tháng Chín năm 1967 khi bốn mươi chín thành viên của IVS đã
viết một bức thư ngỏ gởi đến Tổng thống Johnson và đã từ chức. Nổi bật
nhất trong số đó là Don Luce, người đứng đầu IVS ở Việt Nam khi đó; Don
Luce đã trở lại Hoa Kỳ và phê bình các phương pháp của chính sách Mỹ,
nhưng không chỉ trích sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam. Cuối cùng, sau
Tết Mậu Thân vào đầu năm 1968, IVS bị mất một số lượng nhân lực đáng kể
thì một số thành viên đã chọn trở về Hoa Kỳ do sự bất ổn ở Việt Nam; Hơn
nữa, sự ra đời của chính sách Việt Nam hóa dẫn đến sự rút lui các cơ sở
hạ tầng của Mỹ và tiền viện trợ ở Việt Nam tiếp tục cản trở các dự án
của IVS. Việc loại bỏ các khoản viện trợ của Mỹ dẫn đến sự mất mát các
nguồn tài nguyên để nhân viên IVS có thể thực hiện các dự án của họ và
việc mất các nguồn tài trợ của Mỹ đã khiến chính phủ Việt Nam dưới thời
Tổng thống Thiệu không tài trợ IVS nữa và do đó đã kết thúc công tác của
IVS ở Việt Nam.
Tuy hoạt động của IVS tại Việt Nam có
thể có vẻ không đáng kể trong cuộc chiến, nhưng tổ chức này, cùng với
hàng chục tổ chức nhân đạo khác của Mỹ tại Việt Nam, cho thấy một khía
cạnh khác của kinh nghiệm của Mỹ ở Việt Nam không thuộc phạm trù quân sự
hay chính phủ. Là những tổ chức dân sự liên kết với chính phủ Mỹ, các
tổ chức nhân đạo đó là một phần của chiến lược để giành được “tâm và
trí” của người dân tại Việt Nam và giữ vai trò quan trọng như bộ mặt của
sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam. Ở vị trí này, những người làm công tác
nhân đạo như là trung gian giữa người dân Việt Nam và chính phủ Mỹ, phân
phối viện trợ của Mỹ đến vùng nông thôn để giúp phát triển kinh tế,
nông nghiệp và giáo dục để gây mầm cho một xã hội dân sự đang thành
hình. Những hành động này có thể được giải thích như là một phần để mở
rộng chính sách đối ngoại của Mỹ để ngăn chận chủ nghĩa cộng sản và tạo
ra một Việt Nam với một chính phủ thân thiện với Hoa Kỳ, nhưng các thành
viên của IVS nhập cuộc để giúp đỡ nhân dân Việt Nam đã không hề nghĩ
đến việc mở rộng ảnh hưởng của Mỹ. Tuy nhiên, khi chiến tranh leo thang,
nhiều người hoạt động nhân đạo bị kéo vào một vấn đề đạo đức lớn hơn
xung quanh cuộc chiến đặc biệt là khi họ trực tiếp nhìn thấy kết quả của
chiến tranh. Những biến động do chiến tranh gây ra ở Việt Nam làm nhiều
người hoạt động nhân đạo vỡ mộng và đã đặt câu hỏi về việc làm của mình
khi sự hiện diện của Mỹ đã làm suy yếu mục tiêu và đối tượng của họ.
Nằm giữa nhân dân Việt Nam và chính phủ Mỹ, các tổ chức nhân đạo đã cho
thấy rõ kinh nghiệm của giới dân sự người Mỹ ở Việt Nam và cho thấy đây
là những người nhiệt tình giúp đỡ người dân miền Nam Việt Nam nhưng đã
trở thành một tiếng nói quan trọng chỉ trích chính sách của Mỹ.
Viết xong ngày 30 tháng 4, 2012
Nguồn: Stuck in the Middle: International Voluntary Services and the Humanitarian Experience in Vietnam, 1957 – 1971. Douglas I. Bell | July 17, 2012
[1] Don Luce and John Sommer,Viet Nam – The Unheard Voices, (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1969), 316.
[2] Ibid., 321.
[3] Winburn T. Thomas,The Vietnam Story of International Voluntary
Services, Inc., (Washington, D.C.: International Voluntary Services,
Inc., 1972), 27.
[4] Ibid., 209. According to Thomas, IVS reached 165 members in 1967 and the resignation of 49 members is just under 30%.
[5] Thomas, 55.
[6] International Voluntary Services, Agents of Change, No Date, Folder
52, Box 10, Douglas Pike Collection: Other Manuscripts – American
Friends of Vietnam, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech
University. Accessed 21 Mar. 2012.
<http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=1781052003>.
[7] Gordon Brockmueller, “Adventures in Vietnam,” Brockmueller
Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University.
Accessed 21 Mar.
2012.http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=234501
01001, 15.
[8] Ibid., 18.
[9] Ibid., 19.
[10] Ibid., 18
[11] Ibid., 22.
[12] Ibid., 30.
[13] Jill Hunting,Finding Pete, (Wesleyan University Press, 2009), 55.
[14] Ibid.
[15] Marybeth Clark, “Aid Secretary in Saigon and IVS Teacher in Hue,
1961-1967,” Folder 17, Box 12, Glenn Helm Collection, The Vietnam Center
and Archive, Texas Tech University. Accessed 21 Mar.
2012.http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=1071217001,
24.
[16] Clark, 30.
[17] Thomas, 172.
[18] Ibid., 184.
[19] Ibid., 183, 184.
[20] Ibid., 184.
[21] Ibid., 185.
[22] Ibid., 181.
[23] Ibid., 187-188.
[24] Ibid., 187.
[25] Ibid., 187.
[26] Luce, 17.
[27] Thomas, 203.
[28] Ibid., 204.
[29] Ibid., 211.
[30] Scott Flipse, “The Latest Casualty of War: Catholic Relief
Services, Humanitarianism, and the War in Vietnam, 1967-1968,” Peace
& Change Vol. 27, No. 2, (April 2002), 248.
[31] Michael Novak, ‘‘In Vietnam, U.S. Means Money and Sex,’’ NCR,
August 23, 1967, 5-6; Novak, ‘‘Our Terror, Our Brutality,’’ NCR, August
18, 1965, 3; Novak, ‘‘Catholic Relief Supports South Vietnam’s
Militia,’’ NCR, August 23, 1967, 1.
[32] Novak, ‘‘Catholic Relief Supports South Vietnam’s Militia,’’ National Catholic Reporter, August 23, 1967, 5.
[33] Bernard Weinraub, “4 Chiefs of Volunteer Unit in Vietnam Quit Over
War,”New York Times,Sep 20,
1967.http://lib-ezproxy.tamu.edu:2048/login?url=http://search.proquest.com/docview/117364600?accountid=7082.
[34] Ibid.
[35] Ibid.
[36] Ibid.
[37] William Tuohy, “Resigned Volunteer Asks Others to Stay,”Los Angeles
Times (1923-Current File),September 21,
1967,http://lib-ezproxy.tamu.edu:2048/login?url=http://search.proquest.com/docview/155822729?
accountid=7082 (accessed April 27, 2012).
[38] Thomas, 213.
[39] U.S. Senate, Subcommittee to Investigate Problems Connected with
Refugees and Escapees, Committee on Judiciary.Civilian Casualty, Social
Welfare, and Refugee Problems in South Vietnam.90thCongress 1stSession,
October 10, 1967, 65-66. Available from: ProQuest®Congressional;
Accessed: April 28, 2012.
[40] “U.S. Saigon Mission and Service Group Smooth Differences,”New York
Times,November 15,
1967,http://lib-ezproxy.tamu.edu:2048/login?url=http://search.proquest.com/docview/117444360?accountid=7082.
[41] “U.S. Field Worker Killed in Vietnam,”New York Times,January 28,
1968,http://lib-ezproxy.tamu.edu:2048/login?url=http://search.proquest.com/docview/118522947?accountid=7082.
[42] “IVS Losing Half of Staff in Vietnam.”The Washington Post, Times
Herald,March 19,
1968.http://lib-ezproxy.tamu.edu:2048/login?url=http://search.proquest.com/docview/143591662?accountid=7082.
[43] Thomas, 242.
[44] “S. Vietnam Accused of Ousting U.S. Team: Letter from Ministry,” Washington Post, August 3, 1971, pg. A11.
[45] Thomas, 256.
0 comments:
Post a Comment