“…Những
người Việt cực đoan và thù hận, dù đứng về phía nào trong sân khấu
chính trị, họ đều giống nhau. Cực đoan thường dẫn đến độc tài và chuyên
quyền; Cuồng tín dẫn đến bảo thủ và lú lẫn; Thù hận dẫn đến bạo lực và
xung đột; Tham lam dẫn đến tham nhũng và chiếm đọat…”
Có
thể nói cực đoan, cuồng tín, và hận thù là nguyên nhân của mọi tai họa.
Nó vừa là hệ quả vừa là nguyên nhân dẫn đến bạo lực và khủng bố, xung
đột và chiến tranh. Khi cực đoan và hận thù đã trở thành tâm thức (state
of mind) thì càng nan giải.
Muốn
chống khủng bố và chấm dứt bạo lực, không chỉ dùng bạo lực, mà phải vận
dụng cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để hóa giải. Bạo lực sẽ tiếp nối
bạo lưc, hận thủ sẽ đẻ ra hận thù, như một cái vòng luẩn quẩn nguy hiểm
(vicious circle).
Người
ta có thể tiêu diệt hay bắt sống những tên khủng bố tại Paris, có thể
ném bom tiêu diệt các căn cứ IS ở Syria, nhưng khó lòng chấm dứt được
khủng bố. Chừng nào cực đoan và hận thù còn tồn tại, nó sẽ sản sinh ra
tiếp các nhóm khủng bố mới.
Như
bệnh ung thư đã di căn, người ta không thể dùng dao kéo cắt bỏ hết
được, mà phải kết hợp hóa xạ trị và thay đổi cách sống, may ra mới cứu
vãn được tính mạng. Khi cực đoan và hận thù đã trở thành tâm thức, bạo
lực và khủng bố có thể xảy ra mọi lúc mọi nơi, trong quan hệ quốc gia
quan hệ xã hội, cũng như trong gia đình (domestic violence).
Vì
vậy, muốn xóa bỏ tân gốc khủng bố và bạo lực, phải đánh thức lòng nhân
ái và sự tử tế của con người, để thay thế cho cực đoan và thù hận. Phải
vận dụng năng lượng tích cực thay thế cho năng lượng tiêu cực đang xói
mòn các giá trị cốt lõi của con người.
Cực
đoan và cuồng tín thường có nhiều biểu hiện khác nhau, nhưng điển hình
nhất là mấy dấu hiệu phổ biến sau đây (common indicators):
1.
Không chịu lắng nghe, mà chỉ muốn người khác nghe theo mình (chủ quan,
võ đoán). Khi phải nghe ý kiến người khác thì chỉ thích nghe những gì
giống mình, còn bác bỏ những gì khác mình, không cần biết đúng sai, hay
dở.
2.
Bảo thủ, cứng nhắc, không chịu thay đổi, dị ứng với cái mới và sự khác
biệt. Hay định kiến và cố chấp, không thích tranh luận và phản biện.
Luôn khẳng định và phủ định, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình
là sai…
3.
Độc quyền, độc đoán và độc ác, không có lòng nhân ái vị tha, không chịu
hợp tác và thỏa thuận. Tham lam vô độ, không muốn chia sẻ quyền lợi.
Tính cá nhân cao, tính cộng thấp, chỉ quan tâm đến lợi ích riêng hay lợi
ích nhóm...
“Terror in Little Saigon”: Sống trong sợ hãi?
Gần
đây, khi PBS chiếu bộ phim tài liệu “Terror in Little Saigon”
(3/11/2015) dư luận trong nước và ngoài nước (đặc biệt là cộng đồng
người Việt hải ngoại) lại ồn ào, lật lại một trang sử đau buồn đã diễn
ra cách đây 2-3 thập kỷ, như một vết thương cũ chưa lành.
Đằng
sau những tranh cãi ồn ào (ai là thủ phạm) có một sự thật đáng buồn:
Sau chiến tranh, người Việt (trong nước và hải ngoại) vẫn tiếp tục “sống
trong sợ hãi”, vẫn chưa thoát khỏi bóng ma chiến tranh như “tù binh của
quá khứ”. Vì vậy, họ không thể hòa giải, không phải chỉ giữa hai phía,
mà còn ngay trong lòng cùng một cộng đồng.
Những
người Việt cực đoan và thù hận, dù đứng về phía nào trong sân khấu
chính trị (cộng sản hay chống cộng), họ đều giống nhau. Cực đoan thường
dẫn đến độc tài và chuyên quyền; Cuồng tín dẫn đến bảo thủ và lú lẫn;
Thù hận dẫn đến bạo lực và xung đột; Tham lam dẫn đến tham nhũng và
chiếm đọat. Đó mới là những thứ cần phải chống.
Người
ta nói không thể thay đổi được quá khứ, nhưng có thể tạo dựng lại tương
lai. Nhưng phải minh bạch về quá khứ, mới tha thứ được cho nhau và hòa
giải dân tộc, để cùng đối phó với nguy cơ mới đang đe dọa lợi ích chung
của dân tộc. Tại sao người Đức có thể hòa giải được (sau chiến tranh và
sau thống nhất) mà người Việt lại không làm được?
Phải
chăng tư tưởng cực đoan và lòng hận thù, là di chứng của một cuộc chiến
đẫm máu và tàn khốc (cả chiến tranh cục bộ lẫn nội chiến) vẫn còn đeo
đẳng cả hai phía, làm vô hiệu hóa những nỗ lực và cơ hội hòa giải. Nhiều
năm sau chiến tranh, người Việt trong nước và hải ngoại vẫn là nạn nhân
của cực đoan và hận thù, của bạo lực và khủng bố.
Điều
cần nói là có một số người trong chính quyền Mỹ lúc đó đã bảo vệ và
dung túng cho những người Việt chống cộng cực đoan, dùng bạo lực để đe
dọa và giết hại các nhà báo gốc Việt không cùng quan điểm, bất chấp luật
pháp. Cộng đồng người Việt phải liều mạng vươt biên để định cư tại Mỹ
một đất nước có tự do dân chủ, nhưng họ vẫn “sống trong sợ hãi” vì bị
chính đồng bào của họ khủng bố. Đó là một sự thật trớ trêu khó phủ
nhận.
Đã
4 thập kỷ sau chiến tranh, và 2-3 thập niên sau những vụ giết hại 5 nhà
báo gốc Việt tại Mỹ. Những tư liệu mới thu thập mà Frontline và
ProPublica đã sử dụng trong phim “Terror in Little Saigon”, dù chưa đầy
đủ, nhưng đã bạch hóa được một phần trang sử đau buồn mà nhiều người vẫn
chưa quên. Họ không dám nói ra vì “sống trong sợ hãi”.
Không
phải chỉ có những vụ khủng bố và giết hại 5 nhà báo gốc Việt ở Mỹ đã bị
bưng bít (bởi những động cơ bất lương), mà còn 73 nhà báo gồm nhiều
quốc tịch khác nhau đã bị “mất tích” (tức bị giết kín) trong chiến tranh
Việt Nam, vẫn bị bưng bít và trôi vào quên lãng, không được các chính
phủ (Mỹ và Việt Nam) hợp tác tìm kiếm (như MIA).
Khi
vụ khủng bố tòa báo Charlie Hebdo (tại Paris) xảy ra, Tổng Thống Obama
đã hứa giúp nước Pháp “đưa bọn khủng bố ra trước công lý”. Nhưng đối với
bọn khủng bố giết hại 5 nhà báo gốc Việt trên đất Mỹ, ông đã làm gì?
Đối với 73 nhà báo quốc tế (trong đó có cả nhà báo Mỹ) bị mất tích trong
Chiến tranh Việt Nam, ông và chính quyền đã làm gì?
Những
ý kiến phản đối bộ phim “Terror in Little Saigon” có nhiều động cơ,
trong đó có tâm trạng hoảng sợ vì những gì được bưng bít lâu nay có thể
bị tiết lộ. Ví dụ, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu lãnh đạo của Mặt Trận
cho biết “K-9” là có thật, do ông Phạm Văn Liễu điều phối, mục tiêu ám
sát đầu tiên là chính ông (Nguyễn Xuân Nghĩa), mục tiêu thứ hai là Đỗ
Ngọc Yến (chủ báo Người Việt), nhưng ông Trần Khánh Vân đã lãnh đạn
thay.
Khi
có người bị giết hại chỉ vì bất đồng chính kiến (hay để bịt miệng), thì
người ta im lặng một cách khó hiểu. Khi có những nhà báo có uy tín điều
tra quá khứ, đánh động lương tâm để giúp nhau tìm ra thủ phạm, thì
người ta hoảng sợ. Tâm trạng này giống một dạng tâm thần hoang tưởng,
không dám đối diện với sự thật (dù đã 2-3 thập niên trôi qua).
Tuy
không thể thay đổi được quá khứ, nhưng cố tình bưng bít sự thật lịch
sử, dù núp dưới bất kỳ chiêu bài nào, đều là bất lương và tội lỗi. Với
tinh thần đó, những người tử tế và khách quan cần ủng hộ ProPublica và
Frontline (và những người khác) tiếp tục điều tra để làm rõ sự thật,
không phải chỉ để an ủi thân nhân những người bị giết hại (hay mất
tích), mà còn để khép lại quá khứ, như một vết thương chiến tranh vẫn
chưa thành sẹo.
“Terror in Paris”: Một bước ngoặt mới?
Sau
vụ khủng bố kinh hoàng tại New York (11/9/2001), mở màn cuộc chiến
chống khủng bố, có người ví vụ khủng bố tại Paris (13/11/2015) là một
bước ngoăt tương tự, làm thay đổi cuộc chơi (game changer). Khác với vụ
tấn công tòa báo Charlie Hebdo (14/1/2015), đây là một cuộc tàn sát đẫm
máu, làm 129 người chết và hơn 350 người khác bị thương.
Đối
với Paris, đây không phải lần đầu, cũng không phải lần cuối. Chưa biết
tiếp theo sẽ là nơi nào, Brussels hay Berlin hay London? Các nước Phương
Tây tấn công IS chỉ là duyên cớ trực tiếp để IS trả thù, và làn sóng di
cư vào châu Âu chỉ là cơ hội tốt để IS lợi dụng. Ai cũng biết IS không
đẻ ra từ chân không và không hề đơn độc.
Theo
Tổng thống Nga Putin (tại hội nghị G20) có hơn 40 quốc gia tài trợ cho
IS, trong đó có một số quốc gia trong nhóm G-20. Một số quốc gia “chơi
con bài IS” nhằm thực hiện mưu đồ chính trị của mình. Lẽ ra phải tiêu
diệt IS ngay từ đầu khi mới hình thành thì người ta lại lợi dụng nó,
nuôi dưỡng nó, cung cấp vũ khí cho nó để dùng nó chống lại một số quốc
gia khác. Không biết lời cáo buộc này chính xác tới đâu, đó là một phần
sự thật.
Có
thể hệ thống tổ chức của IS nay hiệu quả hơn. Có thể hệ thống an ninh
của Pháp và Châu Âu lơ là cảnh giác và chủ quan trước những thách thức
mới. Nhưng dù các chính phủ có thắt chặt an ninh và phối hợp tình báo
hiệu quả hơn, hay phối hợp hành động mạnh tay hơn, thì cuôc chiến chống
khủng bố vẫn đầy phức tạp và chưa nhìn thấy lối thoát.
Chừng
nào các quốc gia còn theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tranh chấp
nhau. Chừng nào các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo còn chia rẽ và hận
thù, không muốn hòa giải, từ chối dân chủ hóa, thì còn miếng đất màu mỡ
cho cực đoan và bạo lực. Muốn ngăn chặn khủng bố diễn ra tại New York
hay Paris, phải ngăn chặn từ gốc, và từ trước.
Điều
đáng lo ngại là nhiều thanh thiếu niên từ các nước khác nhau, gồm nhiều
thành phần (kể cả sinh viên và trí thức) vẫn tiếp tục nghe theo tiếng
gọi “thánh chiến” của thế lực Hồi giáo cực đoan, đầu quân làm những kẻ
đánh bom cảm tử. Vậy cái gì thúc đẩy họ từ bỏ cuộc sống bình thường để
trở thành cực đoan (radicalized) và liều chết?
Cuộc
chiến chống khủng bố phải là cuốc chiến toàn diện, trên phạm vi toàn
cầu, chống lại tư tưởng cực đoan và hận thù, là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến bạo lực và khủng bố, xung đột và chiến tranh. Vì vậy, các quốc gia
phải đồng lòng phối hợp, vận dụng cả sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm, mới
có thể hóa giải được nó tận gốc. Cuôc chiến chống khủng bố rất tốn kém
và còn khó khăn hơn cả chống du kích trong rừng rậm nhiệt đới.
Để
đối phó với mấy tên khủng bố tại Boston hay Paris, nước Mỹ hay nước
Pháp phải huy động mấy ngàn quân và chi phí nhiều triệu đô la. Đây là
một sự bất cập về tương quan lực lượng và là một điểm yếu mà bọn khủng
bố sẽ khai thác như một thế mạnh. Để đối phó với một tiểu đoàn khủng bố
tại Đông Nam Á (như thủ tướng Singapore nói) thì các nước ASEAN cần bao
nhiêu quân và bao nhiêu tiền (trong khi Biển Đông như thùng thuốc súng).
Xã hội đầy bạo lực và rủi ro: Thập diện mai phục?
Đạo
diễn Bùi Thạc Chuyên (Việt Nam) có làm môt bộ phim với cái tên hay
“Sống trong sợ hãi” (Living in Fear). Đao diễn Trương Nghệ Mưu (Trung
Quốc) cũng làm một bộ phim với cái tên hay “Thập diện mai phục” (Flying
Daggers). Tên của hai bộ phim này có thể được dùng để mô tả tâm trạng
bất an hiện nay của người Việt (và người Trung Quốc).
Không
phải ngẫu nhiên mà 64% người giàu Trung Quốc (có tài sản trên 1,6 triệu
USD) đã hoặc định di cư khỏi Trung Quốc (theo Elizabeth Economy at
Council on Foreign Relations). Không phải ngẫu nhiên mà tỷ phú Lý Gia
Thành “bỏ chạy” khỏi Trung Quốc. Tâm Trạng bất an của người Trung Quốc
(và người Viêt) là do bạo lực và rủi ro trong xã hội.
Tại
sao sau chiến tranh, được giải phóng rồi, hoặc vượt biên rồi, mà người
Viêt vẫn “sống trong sơ hãi”? Có lẽ vì cực đoan và bạo lực, là di họa
của chiến tranh, vẫn chưa thực sự chấm dứt, như bóng ma của quá khứ tiếp
tục ám ảnh họ. Trong khi ở hải ngoại có “Terror in Little Sài Gòn”, thì
ở trong nước còn nhiều loại terror khủng khiếp hơn.
Đó
là tai họa do bom mìn chưa nổ và chất độc da cam (do chiến tranh để
lại). Đó là nạn trộm cướp, giêt người, hiếp dâm ngày nào báo chí cũng
đưa tin (“cướp, giết, hiếp”). Đó là tai nạn giao thông, chết nhiều như
sóng thần (theo bộ trưởng Giao thông). Đó là ngộ độc thưc phẩm do sử
dụng vô tội vạ các chất độc hại (từ Trung Quốc). Chưa bao giờ có nhiều
người mắc bệnh ung thư như hiện nay (theo Bộ Y Tế). Nhưng chính phủ và
quốc hội vẫn bất lực, vì ngộ độc thực phẩm “phải lăn ra chết thì mới xử lý được!” (theo bộ trưởng Nông nghiệp).
Đối
tượng dễ tổn thương nhất là phụ nữ và trẻ em, có thể bị dụ dỗ hoặc bắt
cóc để bán sang Trung Quốc. Trẻ em đến trường có thể gặp nguy hiểm vì
bạo lực học đường. Tội phạm “vị thành niên” ngày càng gia tăng. Khi giáo
dục và văn hóa xuống cấp, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của cực đoan và
vô cảm, dễ bị cám dỗ bởi ma túy và bạo lực.
Đối
tượng dễ bị bắt nạt nhất (và cũng dễ phản kháng bằng bạo lực) là nông
dân. Trường hợp Đoàn Văn Vươn là một ví dụ điển hình. Để chống lại nhóm
lợi ích địa phương cướp đoạt ruộng vườn và thành quả lao động của mình,
anh đã bị đẩy vào “bước đường cùng”, buộc phải dùng bạo lực để tự vệ, vì
mất hết lòng tin vào chính quyền. Những kẻ bắt trộm chó bị những người
nông dân đánh chết vô tội vạ cũng là môt ví dụ (chỉ có tại Việt Nam).
Một
đặc điểm khác của các quốc gia độc tài (cộng sản hay không cộng sản
cũng vậy) là sử dụng bạo lực để trấn áp những người bất đồng chính kiến,
bằng cách bỏ tù hoặc dùng côn đồ để đánh đập họ. Mục tiêu chính là
khủng bố tinh thần, làm cho mọi người sợ hãi. Stalin, Hitler, Mao, hay
Polpot là những nhà lãnh đạo kiệt xuất trong việc tẩy não khiến hàng
triệu trí thức sẵn sàng giết chóc và hy sinh cho những lý tưởng cực đoan
và đầy thù hận.
Khủng hoảng Biển Đông: Một thùng thuốc súng?
Khủng
hoảng Biển Đông đã xảy ra sau khi Trung Quốc đem dàn khoan HD 981 vào
hải phận Việt Nam tại Biển Đông, bồi đắp các đảo nhân tạo và xây dựng hạ
tầng quân sự trên các đảo đó, tạo ra một bước ngoặt mới. Hành động bành
trướng bằng bạo lực này là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, con đẻ của chủ nghĩa bá quyền Đại Hán.
Cực
đoan và bạo lực vốn là thương hiệu của đảng CS Trung Quốc. Mao chủ tịch
đã từng nói, “quyền lực đẻ ra trên nòng súng”. Trong mấy thập kỷ sau
khi giành đươc chính quyền, đảng CS Trung Quốc đã gây ra những thảm họa
như “Đại Nhảy vọt” (Great Leap forward) và Cách mạng Văn hóa” (Cultural
Revolution) làm mấy chục triệu người chết.
Chắc
mọi người vẫn chưa quên thảm họa diệt chủng tại Campuchia do Khmer Đỏ
gây ra, có bàn tay của đảng CS Trung Quốc. Người Việt Nam (và Triều
Tiên) cũng phải gánh chịu những hậu quả tệ hại do chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi chủ nghĩa Mao đầy cực đoan và bạo lực, cho đến tận ngày nay. Chỉ có
người Miến Điện là may mắn “Thoát Trung”.
Những
gì đang diến ra tại Biển Đông chỉ là sự tiếp nối của lịch sử. Hay nói
khác đi là lịch sử đang lặp lại. Chỉ có “Thoát Trung” mới thoát khỏi
định mệnh (karma) và cái vòng kim cô về ý thức hệ đã kìm kẹp và kéo lùi
lịch sử Viet Nam nhiều thập kỷ. Biển Đông vừa là nguy cơ vừa là cơ hội
để “Thoát Trung”. Bỏ qua cơ hội này chắc không còn cơ hội nào khác.
Hành
đông của Trung Quốc tại Biển Đông có thể tóm tắt: Trong khi đe dọa
(intimidate), cưỡng đoạt (coerce) và bắt nạt (bully) các nước nhỏ yếu
(Việt Nam, Philippines), Trung Quốc thách thức Mỹ, nhưng tránh đối đầu,
vì muốn chia quyền với Mỹ (major power diplomacy). Họ bất chấp luật
pháp, vì muốn thay đổi luật chơi và thay đổi nguyên trạng.
Sách
lược hai mặt này Trung Quốc có hiệu quả, chừng nào họ phân hóa được
ASEAN bằng “cái gậy và củ cà rôt”, bằng đàm phán song phương để vô hiệu
hóa ASEAN. Họ đã vận dụng tối đa “vùng xám” (gray area) để thao túng
bằng cách khoanh vấn đề (localized) để vô hiệu hóa Mỹ và cắt lát nhỏ vấn
đề (salami slice), để biến thành việc đã rồi (fait’accompli).
Trong
khi Obama hoãn chuyến thăm Việt Nam thì Tập Cận Bình đã đến Hà Nội và
đọc diễn văn tại Quốc Hội VN (6/11/2015). Tuy Obama đã bật đèn xanh cho
hải quân Mỹ cho tàu USS Lassen vào vùng biển 12 hải lý quanh đảo Subi
reef tại Biển Đông, nhưng lại trương biển “đi lại vô hại” (innocent
passage). Đây này là một tín hiệu yếu của Mỹ (vẫn là “tiếng kèn ngập
ngừng”), làm bạn bè đồng minh thất vọng, trong khi Trung Quốc mừng
thầm.
Có
thể nói Trung Quốc dùng thủ đoạn và sức mạnh nước lớn để uy hiếp và bắt
nạt các nước nhỏ (như Việt Nam và Philippines) cũng là môt loại khủng
bố. Ngư dân Việt Nam đang “sống trong sợ hãi”, vì hàng ngày bị tàu
thuyền Trung Quốc khủng bố trên Biển Đông. Họ đang bị tước đoạt quyền
đánh cá ngay trên vùng biển vốn là của mình. Nếu bị dồn đến bước đường
cùng, ngư dân Việt có thể liều mạng lao thuyền chứa chất nổ vào tàu
Trung Quốc.
Việt
Nam đã thành lập lữ đoàn tàu ngầm 189 có căn cứ tại Cam Ranh, với 6 tàu
ngầm “Kilo class 636.3-MV” trong đó 4 chiếc đã được chuyển giao và đang
hoạt động, còn 2 chiếc nữa sẽ được chuyển giao trong năm 2016. Đây là
các tàu ngầm tấn công được trang bị tên lửa Klub diệt hạm “3M-54E1” và
đối đất “3M-14E” (có tầm bắn 300 km).
Hạm
đội tàu ngầm non trẻ gồm 6 chiếc tàu “Kilo 636”, cùng với 32 máy bay
chiến đấu đa năng thế hệ 4 “Su-30MK2” là lực lượng răn đe hiện đại có
khả năng gây tổn thất lớn cho đối phường (anti-access/area denial
capabilities). Nếu xảy ra xung đột tại Biển Đông, Viêt Nam có thể buộc
phải tự vệ bằng chiến lược “cùng hủy diệt” (mutually assured
destruction).
Nếu
bị dồn đến bước đường cùng, các tàu ngầm Kilo có thể hoạt động như
“U-Boat” của Đức trong Đai Chiến II, tấn công các tàu chở dầu và chở
hàng của Trung Quốc trên Biển Đông, gây tổn thất lớn cho đối phương và
khủng hoảng thị trường quốc tế, làm các hãng bảo hiểm hàng hải (như
Lloyd’s insurance) và các nhà đầu tư nước ngoài hoảng loạn, buộc đối
phương phải nghĩ lại và cộng đồng quốc tế phải can thiệp để tìm giải
pháp qua đàm phán.
Nhưng
vấn đề không phải là tiềm lực quốc phòng, mà là ý chí chính trị của
lãnh đạo và sự đồng lòng của toàn dân. Nếu đồng lòng, Việt Nam đã từng
thắng Pháp và Mỹ. Nếu chia rẽ, Viêt Nam đã từng mất Hoàng Sa (1974), mất
Gac-Ma và một phần Trường Sa (1988), và nay có thể mất nốt Trường Sa và
toàn bộ Biển Đông vào tay Trung Quốc.
NLD thắng cử tại Myanmar: Những bài học nào?
Ngày
8/11/2015 sẽ đi vào lich sử Myanmar khi tổng tuyển cử tự do đầu tiên
(sau 25 năm) đã được tổ chức thành công. Đảng NLD của bà Aung San Suu
Kyi đã giành được hơn 2/3 số ghế (348 ghế) tại quốc hội, nhiều hơn 19
ghế so với 329 ghế cần thiết để giành chiến thắng tuyệt đối. Kết quả này
đồng nghĩa với việc đảng NLD sẽ kiểm soát cả thượng viện và hạ viện, và
có quyền chọn Tổng thống, chấm dứt nhiều thập niên cầm quyền của quân
đội (mặc dù quân đội vẫn còn nắm giữ 25% số ghế và mấy bộ chủ chốt).
Kết
quả to lớn này đã làm nhiều người ngạc nhiên (kể cả bà Aung San Suu
Kyi). Nhưng ngạc nhiên hơn cả là thái độ của quân đội: chấp nhận thất
bại và sẵn sàng hợp tác. Đây là điều hiếm có. Tướng Min Aung Hlaing nói
quân đội sẽ “làm điều gì tốt nhất để hợp tác với chính phủ mới trong
giai đoạn hậu bầu cử”. Tổng thống Thein Sein cũng cam kết “sẽ tôn trọng
quyết định và lựa chọn của nhân dân và sẽ chuyển giao quyền lực như thời
gian đã định”.
Ngày
12/11/2015, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã gọi điện trưc tiếp cho bà
Aung San Suu Kyi để chúc mừng và ca ngợi “nỗ lực không mệt mỏi và sự hi
sinh sau rất nhiều năm để thúc đẩy một Myanmar hòa nhập, hòa bình và dân
chủ”. Ông cũng bày tỏ hi vọng kết quả bầu cử sẽ dẫn đến một “tương lai
hòa bình và thịnh vượng hơn” cho Myanmar.
Bà Aung San Suu Kyi và ông Thein Sein
Bắc
Kinh cũng không thể không “bắt tay” với chính quyền mới do đảng NLD của
bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo, mặc dù bà Aung San Suu Kyi là một trong
những chính khách Myanmar đã công khai phản đối Trung Quốc xây thủy điện
Myitsone tại Myanmar, khiến công trình có kinh phí 3,6 tỷ USD này vừa
khởi công đã bị đình chỉ. Tháng 6/2015, lãnh đạo Trung Quốc (Tập Cận
Binh) đã đón tiếp trọng thị bà Aung San Suu Kyi trong chuyến thăm TQ,
với tư cách là thủ lĩnh đảng đối lập NLD. Đó là một nước cờ khôn ngoan.
Trung
Quốc buộc phải hợp tác với chính quyền tương lai của Naypyidaw, vì họ
có những lợi ích sống còn tại đây. Myanmar là điểm mấu chốt trong chiến
lược “một vành đai, một con đường” của Trung Quốc, là cửa ngõ tốt nhất
để Trung Quốc tiếp cận Ấn Độ Dương, kết nối Đông Nam A với Nam Á.
Myanmar còn là điểm cuối của Hành lang Kinh tế kết nối Trung Quốc với Ấn
Độ, Bangladesh và Myanmar, và là một mắt xích quan trọng của tuyến
đường bộ cao tốc Ấn Độ - Myanmar - Thái Lan. Dự án đường ống dẫn dầu
Trung Quốc-Myanmar trị giá hàng tỷ nhân dân tệ, sẽ nối Vân Nam với Ấn Độ
Dương qua Myanmar.
Có 3 bài học chính về Myanmar:
Một
là, Myanmar đã thoát Trung thành công. Thoát Trung không có nghĩa là
chống Trung Quốc hay quay lưng lại, mà là điều chỉnh lại mối quan hệ với
Trung Quốc để bình đẳng hơn, độc lập hơn, không bị lệ thuộc, dựa trên
lợi ích quốc gia (chứ không phải trên ý thức hệ “viển vông”). Thực tế là
Trung Quốc cần Myanmar cũng như Myanmar cần Trung Quốc. Tại sao người
Myanmar làm được, mà người Việt lại không?
Hai
là, hòa giải thành công giữa chính quyền độc tài quân sự (đảng USDP) và
phe đối lập đấu tranh cho dân chủ (đảng NLD) là cơ sở để đoàn kết dân
tôc. Sau hơn 2 thập niên bị đàn áp và giam lỏng, Aung San Suu Kyi và
đảng NLD không bị khuất phục, mà còn trưởng thành như một đối trọng
chính trị được dân chúng ủng hộ và quốc tế hậu thuẫn. Điều đáng nói là
cả hai phía đã bỏ qua thù hận và thành kiến, để hòa giải và hợp tác với
nhau vì lợi ích chung của dân tộc. Tại sao người Myanmar làm được, mà
người Việt lại không?
Ba
là, quá trình dân chủ hóa đã thành công tại Myanmar, thông qua con
đường đấu tranh bất bạo động, dùng sức mạnh mềm chống lại sức mạnh cứng,
để đảo ngược cấu trúc quyền lực cứng đã lỗi thời tại Myanmar. Tư tưởng
cách mạng của Aung San Suu Kyi là phải “thoát khỏi nỗi sợ hãi” (freedom
from fear”) để thay đổi thể chế chính trị, và thay đổi chính mình. Bà đã
thành công. Tại sao người Myanmar làm được, mà người Việt lại không?
Tuyên
bố của Aung San Suu Kyi, “Tôi sẽ ở trên Tổng thống” (hiến pháp của
chính quyền quân sự không cho phép bà làm tổng thống vì có chồng con là
người nước ngoài) đã làm một số người lo ngại như một dấu hiệu độc đoán
và kiêu ngạo. Với 25 năm trải nghiệm cuộc đấu tranh chính trị trường kỳ
và phức tạp vì dân chủ, chắc bà đủ khôn ngoan và bản lĩnh để không mắc
sai lầm. Tuyên bố đó chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp vì thực dụng
(realism).
Nguyễn Quang Dy
22/11/2015
Nguồn: viet-studies.info
0 comments:
Post a Comment