Đoàn Nhã An
Pháp luật Việt Nam hiện hành có sẵn câu trả lời.

Thi
thể của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang được bảo quản và trưng bày
tại một lăng mộ đặc biệt, nằm trong trung tâm chính trị Ba Đình, Hà Nội.
Ảnh: Zing.vn
Ngày 16/10/2015, Tòa án Nhân Dân tỉnh
Quảng Trị tuyên án chung thân đối với “cậu” Thủy (tên thật là Nguyễn Văn
Thúy) với hai tội danh: lừa đảo và xâm phạm hài cốt.
Theo Tuổi Trẻ, trong phần xét hỏi bị cáo, ông Vũ Ngọc Mậu, chủ tọa phiên tòa đặt câu hỏi: “Xương
cốt người là thứ thiêng liêng. Xương cốt liệt sĩ lại càng là điều
thiêng liêng hơn nữa. Tại sao bị cáo có thể cho phép mình làm cái việc
vô đạo ấy?”[1]
Lời phát biểu của người đại diện tòa án
trong phiên xử “cậu Thủy” cho thấy trong đời sống tinh thần của người
Việt, thi hài và xương cốt của người quá cố thường đòi hỏi sự tôn trọng
cao nhất từ xã hội. Trên hết, quyền được an nghỉ theo ý nguyện lúc sinh
thời của người đã khuất càng phải được tôn trọng và bảo vệ.
“Cậu” Thủy không phải là người duy nhất
bị tuyên án về tội “xâm phạm hài cốt và thi thể” trong thời gian gần
đây. Ngày 11/9/2015, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã tuyên y án sơ
thẩm 19 năm tù đối với bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, người vào năm 2013 đã
ném thi thể của một khách hàng xuống sông sau khi cô này tử vong trong
quá trình phẫu thuật thẩm mỹ.[2]
Vậy cụ thể, hành vi cấu thành tội phạm theo Bộ luật Hình sự Việt Nam cho tội này bao gồm những gì?
Điều 246 Bộ Luật Hình Sự: Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt:[3]
- Người nào đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ,
trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai
năm.
- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
Câu hỏi pháp lý được đặt ra là ai sẽ có
thẩm quyền xử lý thi thể của người đã chết theo quy định của pháp luật
Việt Nam? Vì rõ ràng là những ai không có thẩm quyền theo luật định, nếu
tự ý xử lý thi thể, hài cốt đều có thể bị buộc tội theo điều 246 BLHS.
Vụ án 46 năm
Thi thể Hồ Chí Minh, vị cố Chủ tịch nước
thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã không được mai táng trong suốt 46
năm qua và đặt ra nhiều dấu hỏi về mặt pháp lý.
Sau khi Hồ Chí Minh qua đời vào đúng
ngày Quốc khánh của VNDCCH, 2/9/1969, Bộ chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã họp bàn vào ngày 29/11 cùng năm và quyết định giữ gìn lâu
dài thi hài ông.
Kể từ ngày 29/8/1975, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức mở cửa cho người dân vào thăm và trực tiếp quan sát thi thể của ông.
Liên tục trong vòng trên dưới 40 năm,
cho đến những năm 2010 và 2012, Bộ chính trị tiếp tục ra các quyết định
nhằm cho phép ĐCSVN cũng như chính phủ Việt Nam được giữ gìn thi hài ông
Hồ Chí Minh vô thời hạn.

Lễ truy điệu Hồ Chí Minh năm 1969. Ảnh: Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo tài liệu đăng tải bởi Thiếu Tướng
Phạm Văn Lập, Chính ủy Bộ Tư Lệnh Bảo vệ Lăng Hồ Chí Minh, vào ngày
22/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án số 2341 về “Giữ gìn
lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát
huy ý nghĩa chính trị, văn hóa của Công trình Lăng trong giai đoạn mới”.
Tiếp đó, ngày 08/3/2012, Thường vụ Quân
ủy Trung ương đã ra Nghị quyết số 122/NQ-QU về “lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí
Minh và phát huy ý nghĩa chính trị, văn hóa của Công trình Lăng trong
giai đoạn mới.”[4]
Những diễn biến trên cho thấy, quyết
định tiếp tục duy trì thi thể ông Hồ Chí Minh như hiện tại có dấu hiệu
vi phạm Điều 246, Bộ luật Hình sự, thuộc nhóm các “hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt”.
Trái di chúc của người đã chết
Khi sinh thời, Hồ Chí Minh đã lập di
chúc, trong đó đặc biệt nêu rõ ý nguyện của ông cho việc hậu sự của bản
thân. Ông có di nguyện được hỏa táng cũng như đã căn dặn chi tiết việc
xử lý tro cốt.

Bản gốc Di chúc của Hồ Chí Minh nói ông muốn được hỏa táng. Ảnh: giaoduc.net.vn
Cho đến thời điểm hiện tại, chính phủ Việt Nam đều công nhận tính chính danh cũng như giá trị pháp lý của bản di chúc này.[5] Do đó, di nguyện của ông Hồ Chí Minh đúng ra phải được thực hiện trước nhất và trên hết.
Luật pháp Việt Nam hiện nay công nhận
quyền hiến tặng các bộ phận cơ thể cũng như quyền được hiến xác của một
người sau khi chết. (Điều 34 – Bộ Luật Dân sự).[6]
Từ đó cho thấy việc được toàn quyền chọn phương pháp xử lý thân thể của
một cá nhân sau khi qua đời là một quyền lợi hợp pháp, được luật pháp
Việt Nam công nhận. Và vì thế, không có cơ sở pháp lý nào để giải thích
vì sao di nguyện được hỏa táng của ông Hồ Chí Minh không được thực hiện
trong 46 năm qua.
Trong trường hợp ông Hồ Chí Minh không
lập di chúc, quyền xử lý thi thể của ông vốn nên thuộc về những người có
quyền thừa kế theo luật định. Bộ luật Dân sự nêu rõ các hàng thừa kế
thứ nhất, thứ hai và thứ ba.[7]
Trong các hàng thừa kế, cũng không có quy định đặc biệt nào dành cho
ĐCSVN. Ngoài ra, các quyết định về việc xử lý thi thể ông Hồ Chí Minh từ
phía chính phủ cũng không nêu ra bất kỳ văn bản ủy quyền từ người thân
hay họ hàng của ông Hồ Chí Minh cho Bộ chính trị. Do đó, việc liên tục
trong 46 năm tự ý xử lý thi thể ông Hồ Chí Minh mà không dựa theo bất
kỳ cơ sở pháp luật nào là một hành vi “xâm phạm thi thể” theo Điều 246
BLHS.
“Ý Đảng – Lòng Dân” có cao hơn pháp luật?
Bắt đầu từ quyết định đầu tiên năm 1969
cho đến Nghị quyết số 122/NQ-QU năm 2012, ĐCSVN và chính phủ Việt Nam
thường dựa vào “Ý Đảng – Lòng Dân” để làm cơ sở lập luận, cho phép họ
được quyền xử lý và bảo quản thi thể Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, “Ý Đảng –
Lòng Dân” trong trường hợp này không phải là cơ sở pháp lý được pháp
luật Việt Nam thừa nhận.
“Ý Đảng – Lòng Dân” là một lập luận
không những không mang tính pháp lý mà ngay cả ý nguyện của chính Hồ Chí
Minh cũng không được bảo vệ và tôn trọng. Trong khi bất kỳ một công dân
Việt Nam nào khác đều có quyền xử lý thi thể của mình sau khi chết theo
ý nguyện cá nhân thì việc đi ngược lại di chúc của Hồ Chí Minh thể hiện
sự xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của ông, ngay cả khi ông đã
chết.
Quyết định của Bộ chính trị ĐCSVN cho
phép họ tự ý xử lý và tiếp tục bảo trì thi thể Hồ Chí Minh theo phương
cách của họ trong gần 46 năm qua, về bản chất, không khác biệt nhiều với
hành vi của “cậu” Thủy hay bác sĩ Mạnh Tường đã làm đối với những thi
thể và hài cốt của các nạn nhân trong các vụ án của họ.
Một trong những nguyên tắc pháp lý được thừa nhận rộng rãi trên thế giới là nguyên tắc stare decisis, một thuật ngữ Latin chỉ việc phán quyết giống nhau đối với những vụ án giống nhau.
Nếu như chủ tọa phiên xử vụ án “cậu”
Thủy, ông Vũ Ngọc Mậu đã cho rằng, “xương cốt người là thứ thiêng liêng”
và “xương cốt liệt sĩ lại càng thiêng liêng” để đánh giá hành vi của
“cậu” Thủy và các đồng phạm là “vô đạo” và tuyên án chung thân, vậy thì
hành vi của các cá nhân có liên quan trong ĐCSVN trong việc xâm phạm
xương cốt và thi thể của Hồ Chí Minh cũng cần phải được phán quyết tương
tự.
Bằng không, lập luận “Ý Đảng – Lòng Dân”
sẽ là một trong những rào cản lớn nhất cho việc xây dựng xã hội pháp
trị (rule of law) ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
0 comments:
Post a Comment