…lãnh
đạo Việt Nam sẽ không thể quay lưng lại với Trung Quốc bởi chính cái
định mệnh địa chính trị nằm kề nhau giữa hai nước, cũng như sự tương
đồng về ý thức hệ xã hội chủ nghĩa từ trước tới nay.

Trước
thềm đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XII sắp tới, sự kiện được
dự đoán sẽ được tổ chức vào giữa năm 2016, tôi xin bàn luận một tý về
một đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Không thể
phủ nhận rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ được sự đoàn kết của
toàn dân Việt Nam trong việc duy trì tính danh chính ngôn thuận
(legitimacy) của đảng cầm quyền trong nhiều thập kỷ qua. Đây là một
chiến thuật thông dụng của các đảng toàn trị trên thế giới nhằm giữ vững
sự cầm quyền tuyệt đối của mình. Rất đơn giản, nhà cầm quyền phát triển
một hoặc vài thành tựu kinh tế hoặc xã hội để người dân tin tưởng vào
sự lãnh đạo của họ, từ đó giữ vững vai trò toàn trị của mình. Hoặc đơn
giản hơn nữa, nhà cầm quyền tìm hoặc tạo ra một mối lo chung, cụ thể là
một "kẻ thù" của "quốc gia", nhằm tranh thủ sự chú ý của người dân vào
một "kẻ thù", từ đó tạo ra sự "đoàn kết toàn dân", và "đoàn kết giữa
đảng và nhân dân". Chiêu bài này được chính trị gia các nước sử dụng mọi
lúc mọi nơi.
Trở
lại trường hợp của Việt Nam, đảng cộng sản sinh ra và trưởng thành như
là một chính đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam "đấu tranh chống ngoại
xâm". Công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa và chủ nghĩa đế
quốc chính là vốn chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên
tính chính danh của họ trong suốt nhiều thập kỷ. Trong giai đoạn đầu của
nền độc lập dân tộc, nhiều sai lầm nghiêm trọng của nhà nước vì sự áp
dụng rập khuôn chủ nghĩa cộng sản đã làm cho nhân dân lầm than. Để rồi
sự sụp đổ của Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đe doạ đến sự tồn
vong của các đảng cộng sản ở các châu lục khác. Cũng như ở Trung Quốc,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng cải cách để tránh hoạ diệt vong đang
ập tới. Một chiến lược cải tổ sâu rộng nền kinh tế chính trị Việt Nam
lúc bấy giờ được ban hành kịp thời, được biết đến dưới cái tên "Đổi
Mới". Rõ ràng, Đổi Mới không hẳn xuất phát từ cuộc cải cách "vì dân", mà
có thể nói, đấy là sự thích nghi của đảng cộng sản trước mối đe doạ
tiềm tàng trong và ngoài nước. Kể từ đấy, nền kinh tế Việt Nam đã chính
thức từ bỏ cơ cấu vận hành của chủ nghĩa xã hội đúng chuẩn theo công
thức Mác-Lênin. Nước cờ cao tay này của đảng cộng sản đã thành công rực
rỡ trong gần hai mươi năm tiếp theo. Trong giai đoạn này, nền kinh tế
Việt Nam phát triển nhanh chóng. Chỉ số GDP và các thước đo kinh tế khác
của Việt Nam tăng trưởng không ngừng. Cùng với thành tựu kinh tế là
chính sách mở cửa của Việt Nam, thông qua việc gia nhập các tổ chức quốc
tế như ASEAN, APEC, WTO, nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực nước
ngoài. Thành tựu kinh tế trong giai đoạn này chính là cơ sở cho tính hợp
pháp của đảng cộng sản. Tuy nhiên, mặt tối của xã hội và chính trị Việt
Nam vẫn tồn tại nhan nhản, ví dụ như nạn tham nhũng hay những vi phạm
nhân quyền, dường như bị che lấp đi bởi cái "giá trị kinh tế" của đảng
cộng sản đối với người dân Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế không thể bền
vững nếu cơ cấu của nền kinh tế (kinh tế thị trường) không phù hợp hoặc
không được hỗ trợ bởi một thể chế chính trị phù hợp (chế độ toàn quyền
hoặc độc tài). Thể chế toàn quyền và sự vun vén của những nhóm lợi ích
lại một lần nữa đẩy xã hội Việt Nam vào thế bí. Đối lập với một nền kinh
tế đi lên là một xã hội với nhiều bất cập. Đời sống của nông dân và
công nhân vẫn còn khó khăn, thu nhập thấp, điều kiện sống và làm việc
thiếu thốn. Tự do ngôn luận, tự do báo chí bị hạn chế. Tình trạng tham
nhũng, lạm quyền, hối lộ ngày càng phổ biến. Để rồi cuối cùng, tình
trạng tham nhũng và sự quản lý yếu kém của nhà nước đẩy Việt Nam vào một
cuộc khủng hoảng kinh tế ngầm : các tập đoàn kinh tế nhà nước phá sản,
nợ công nước ngoài tăng ngoài tầm kiểm soát, tăng trưởng kinh tế kém.
Lúc
này đây, chính việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam,
ban đầu tưởng như là một mối đe doạ, lại chính là cứu cánh cho tính hợp
pháp của đảng cộng sản và nền chính trị Việt Nam. Thông qua các phương
tiện truyền thông đại chúng, nhà nước ra sức cập nhật tình hình Biển
Đông và tuyên truyền lên án Trung Quốc. Nhớ lại trước đây, những hành
động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc vốn luôn được nhà nước Việt Nam
che giấu vì một mối bang giao "16 chữ vàng" giữa hai nước. Tình thế nay
đã khác, chiến lược "đẩy lửa ra ngoài" của chính phủ lại một lần nữa
thành công : cả đất nước Việt Nam lẫn kiều bào sinh sống khắp mọi nơi
trên thế giới đoàn kết lại lên án các hoạt động xâm phạm chủ quyền của
Trung Quốc tại Biển Đông. Vốn xã hội thông qua đoàn kết toàn dân đã tạo
ra vốn chính trị cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính hợp pháp của nhà cầm
quyền được củng cố. Thế nhưng, cái cơ sở này rất khác so với hai lần
trước. Một là, đây chỉ là một vấn đề cục bộ, trong tổng thể bức tranh to
lớn của chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam. Nó chắc chắn sẽ không thể
được sử dụng dài hơi khi mà xung đột vũ trang giữa hai nước là điều khó
trở thành hiện thực. Hai là, nếu muốn duy trì cái cơ sở cho tính hợp
pháp của đảng, họ phải thể hiện rõ thái độ của mình trong quan hệ với
Trung Quốc trong bối cảnh của việc tranh chấp Biển Đông. Hình ảnh một
đảng lãnh đạo Việt Nam tiếp tục thân Trung chắc chắn không thể chứng tỏ
khả năng trị nước của mình trước nhân dân. Trên thực tế, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã và đang tạo ra những dịch chuyển mạnh mẽ trong các mối quan
hệ quốc tế của mình theo chiều hướng xa rời Trung Quốc hơn, bằng việc
tích cực tham gia vào TPP và đẩy mạnh quan hệ với Mỹ. Việc đa phương hoá
quan hệ quốc tế như thế giúp Việt Nam cân bằng vị trí địa chính trị của
mình tại Biển Đông. Câu hỏi đặt ra ở đây là, chính phủ Việt Nam sẽ đi
theo chính sách ngoại giao này một cách toàn diện hơn nữa hay chỉ là
biện pháp tạm thời nhằm đối phó với Trung Quốc, và đặc biệt là nhằm cứu
vớt uy tín của mình trước người dân Việt Nam.
Tại
thời điểm này, Đảng Cộng sản Việt Nam đang tất bật trước thềm đại hội
đảng sẽ được triệu tập trong năm tới. Một cuộc dịch chuyển ngầm đang
diễn ra trong nội bộ đảng, với việc nhân sự lãnh đạo các địa phương được
dàn xếp, để bảo đảm những vị trí cao cấp được trao cho những đảng viên
có ảnh hưởng quyền lực nhất trong bộ máy chính trị Việt Nam. Việc giảm
dần sự lệ thuộc vào Trung Quốc là hành động hợp thời thế. Tuy nhiên,
chắc chắn rằng lãnh đạo Việt Nam sẽ không thể quay lưng lại với Trung
Quốc bởi chính cái định mệnh địa chính trị nằm kề nhau giữa hai nước,
cũng như sự tương đồng về ý thức hệ xã hội chủ nghĩa từ trước tới nay.
Một trong những thách thức lớn nhất của Đại hội Đảng lần thứ XII là, sau
Biển Đông, tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ dựa vào những
giá trị hay mục tiêu chính trị nào tiếp theo, trong một bối cảnh quan hệ
quốc tế phức tạp, và một tình hình kinh tế không còn khả quan như
trước.
Cao Huy Huân
Nguồn : VOA, 31/10/2015
0 comments:
Post a Comment